NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ NGHIỆP
Theo kinh điển Nikaya
1. Nghiệp là gì?
2. Nguyên nhân tại sao?
3. Nghiệp chứa ở đâu?
4. Những gì không phải là nghiệp?
5. Có thể biến cải quả của nghiệp
không?
6. Những hiểu biết sai lầm hay tà
kiến về Kamma (Nghiệp)
7. Một số câu hỏi liên quan đến
nghiệp
8. Lợi ích của sự hiểu biết luật
nghiệp báo
9. Các loại nghiệp (Phân loại
nghiệp)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp
Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về
Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo; bởi vì luật Nghiệp Báo đã giải thích cho họ
thấy rõ lý do của sự bất đồng của các cá nhân trong xã hội con người, đồng thời
cũng giải thích cho họ biết tại sao những người rất tốt trên cõi đời này lại
gặp cảnh đau khổ.
Tôi có quen một người Ý Đại Lợi. Người
này rất băn khoăn thắc mắc về vấn đề bất đồng của các cá nhân trong xã hội. Ông
ta suy nghĩ về vấn đề này rất nhiều. Ông tìm hỏi nhiều người về vấn đề này,
nhưng không tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Một ngày nọ ông đọc được một cuốn
sách về Phật Giáo trong đó có nói đến luật Nghiệp Báo. Khi đọc về luật Nghiệp
Báo ông ta rất thỏa mãn với những lời giải thích của luật Nghiệp Báo. Ông quyết
định tìm hiểu thêm về đạo Phật. Ông sang Á Châu trở thành một nhà sư, và
mất ở tuổi tám mươi. Luật Nghiệp Báo là động lực đầu tiên khiến ông trở thành
một nhà sư Phật Giáo.
Bài giảng về Nghiệp Báo hôm nay căn cứ
vào Kinh Cūlakamma bhanga trong Trung Bộ Kinh. Đây là bài kinh Đức Phật giảng
cho chàng thanh niên Bà La Môn Subha.
Chàng thanh niên Bà La Môn Subha hỏi Đức
Phật:
1. Tại sao có
người chết yểu, có người sống lâu?
2. Tại sao có
những người thường hay bị bịnh, có những người đầy đủ sức khỏe?
3. Tại sao có
những người mặt mày xấu xí, có những người đẹp đẽ?
4. Tại sao có
những người cô thế, có người đầy quyền uy.
5. Tại sao có
người nghèo nàn đói khổ, có người giàu sang sung túc?
6. Tại sao
có người sinh ra trong gia đình thấp kém, hạ liệt, trong giai cấp bần cùng, có
người sinh ra trong gia đình quyền quí, trong giai cấp cao sang?
7. Tại sao có
người ngu dốt (những người thiếu trí tuệ), có người thông minh?
Đức Phật đã trả lời cho Subha một cách
ngắn gọn về mười bốn hạng người trên.
Đức Phật nói:
"Này người thanh niên. Chúng sinh
có Nghiệp là tài sản của mình. Chúng sinh là kẻ thừa tự của Nghiệp của mình.
Chúng sinh có nguồn gốc từ Nghiệp của mình. Chúng sinh sinh ra từ Nghiệp của
mình hay chúng sinh là thân bằng quyến thuộc của Nghiệp mà mình đã tạo. Chúng
sinh có Nghiệp là nơi nương nhờ. Ḍo Nghiệp mà có sự khác nhau giữa các chúng
sinh hay Nghiệp đã tạo ra sự khác nhau giữa chúng sinh, Nghiệp đã tạo ra sự
khác nhau giữa người và người"
Đức Phật đã trả lời cho Subha một cách
ngắn gọn như vậy.
Subha bạch với Đức Phật rằng: anh ta
không hiểu rõ những lời giải thích ngắn gọn của Đức Phật. Subha nói:
"Bạch Ngài, con không hiểu rõ những
lời giải thích ngắn gọn của Ngài. Xin Ngài giảng giải rộng rãi, nhiều chi tiết
hơn”.
Đức Phật bèn giảng giải cho Subha nhiều
chi tiết hơn. Sở dĩ Đức Phật trả lời cho Subha một cách ngắn gọn như vậy bởi vì
Ngài biết rằng: Subha là một người đầy cao ngạo. Subha nghĩ rằng:mình là người
thông minh sáng láng có thể hiểu tất cả những gì Đức Phật dạy dầu đó là những
lời ngắn gọn. Đức Phật muốn làm cho tâm cao ngạo của Subha giảm xuống để Subha
có thể khiêm nhường nghe những lời giảng giải của Ngài, nên Đức Phật chỉ trả
lời một cách ngắn gọn. Khi Subha thỉnh cầu Đức Phật giảng giải chi tiết, Đức
Phật mới giảng giải chi tiết cho ông ta.
Mặc dầu, những câu hỏi này được Subha
hỏi, nhưng đây là những câu hỏi thường được mọi người thắc mắc và muốn được trả
lời, bởi vì họ đã từng gặp những vấn đề này trong cuộc sống của con người. Có
những người mặc dầu được sinh ra trong cùng một gia đình, có cùng cha cùng mẹ,
được nuôi dưỡng dưới cùng hoàn cảnh và điều kiện giống nhau, nhưng họ khác
nhau; có người thông minh, có người ngu đần; có người sống lâu, có người chết
sớm, người giàu, kẻ nghèo v.v... Đây là những câu hỏi người ta thường đặt ra và
muốn được trả lời thỏa đáng.
Nếu bạn đặt những câu hỏi này cho người
tin tưởng vào Thượng Đế, vào ông Trời hay vào Đấng Sáng Tạo thì bạn sẽ được trả
lời rằng:
"Bởi vì Thượng Đế, Chúa Trời đã tạo
ra như vậy”.
Câu trả lời này chắc chắn không làm bạn
thỏa mãn. Sẽ có nhiều câu hỏi tiếp theo khi bạn được nghe câu trả lời như vậy.
Chỉ có những lời giải đáp của Đức Phật mới làm cho người ta thỏa mãn bởi vì
những câu trả lời của Đức Phật không vô lý. Đức Phật trả lời từng câu hỏi một
của chàng thanh niên Subha.
Mặc dầu được sinh ra cùng cha cùng mẹ,
được nuôi dưỡng cùng hoàn cảnh và điều kiện giống nhau, nhưng chúng ta không
thể lấy những điều kiện và hoàn cảnh này làm nguyên nhân của sự bất đồng của
họ, cũng không thể lấy lý do họ có cùng cha, cùng mẹ nên nói sự di truyền là
nguyên nhân. Cùng được nuôi dưỡng dưới những điều kiện và hoàn cảnh giống nhau
nhưng họ khác nhau. Như vậy, lý do của sự khác nhau của những người trong cùng
một gia đình phải là cái gì nằm ngoài di truyền, và hoàn cảnh. Đức Phật chỉ cho
chúng ta thấy rõ rằng: Có cái gì đó trong quá khứ đã làm cho chúng ta, và đời
sống của chúng ta khác nhau.
Đức Phật đã giải thích cho Subha từng
câu hỏi một:
1. Tại sao có
người chết yểu, có người sống lâu?
"Một số người giết hại chúng sinh
khác, không phải chỉ giết hại chúng sinh một lần mà nhiều lần họ giết hại chúng
sinh. Do hậu quả của sự giết hại này, họ tái sinh vào bốn đường ác. Họ bị tái
sinh vào cảnh Súc Sinh, Ngạ Quỷ, A Tu La, Điạ Ngục. Sau khi ở các cảnh khổ này,
nếu được tái sinh làm người trong kiếp hiện tại thì họ bị chết yểu (đoản thọ).
Bởi vì họ đã giết hại chúng sinh, nghĩa là họ đã có ý muốn làm cho đời sống của
chúng sinh bị ngắn lại, muốn chấm dứt mạng sống của chúng sinh sớm hơn, làm cho
tuổi thọ của chúng sinh ngắn lại. Thay vì chúng sinh được sống lâu hơn, họ làm
cho chúng sinh chết sớm. Do có ý muốn làm cho tuổi thọ của chúng sinh ngắn đi
nên họ nhận hậu quả là đời sống của họ cũng bị ngắn đi hay bị chết yểu.
Có những người không bao giờ giết hại
chúng sinh. Họ giữ giới sát sinh. Họ ngăn ngừa sự giết hại chúng sinh. Những
người này sau khi chết sẽ được tái sinh vào cõi trời. Khi họ tái sinh làm người
họ sẽ trường thọ. Những người chết sớm là những người đã giết hại chúng sinh
trong những kiếp sống trước đây. Và những người trường thọ là những người giữ
giới không sát sinh trong những kiếp trước đây. Khi họ ngăn ngừa hành động giết
hại chúng sinh thì tâm họ có lòng mong muốn chúng sinh được sống lâu. Lòng mong
muốn chúng sinh được sống lâu là nguyên nhân khiến họ được trường thọ khi họ
tái sinh làm người.
2. Tại sao có
người thường hay bị bệnh hoạn, có người đầy đủ sức khỏe?
Có những người hay bị bệnh hoạn, hết
bệnh này lại đến bệnh kia, hoặc sức khỏe họ luôn luôn yếu kém. Những người này,
theo lời dạy của Đức Phật, là những người đã làm những chúng sinh khác bị
thương. Họ không giết hại người hay chúng sinh khác, nhưng họ hành hạ đánh đập
làm cho người khác, chúng sinh khác đau đớn, khổ sở, làm cho cơ thể chúng sinh
khác bị tổn thương. Do hành động độc ác, hành hạ, đánh đập, làm hại cơ thể
chúng sinh, làm cho chúng sinh bị thương nên họ bị tái sinh vào bốn ác đạo. Khi
họ tái sinh làm người, họ luôn luôn bị đau ốm, bị tật nguyền, sức khỏe yếu kém.
Có những người thân thể cường tráng, sức
khỏe đầy đủ. Có người chẳng bao giờ đau ốm, chẳng bao giờ đến gặp bác sĩ, chẳng
bao giờ vào nhà thương, chẳng bao giờ uống một viên thuốc nào. Họ có một cơ thể
khỏe mạnh. Tại sao vậy? Trong kiếp sống này, họ có cơ thể khỏe mạnh, bởi vì
trong những kiếp sống quá khứ họ không bao giờ hành hạ kẻ khác, không làm kẻ
khác bị thương tật, không làm tổn thương thân thể kẻ khác. Họ đã có lòng bi mẫn
đối với chúng sinh khác. Do những hành động thiện họ đã làm, nên khi tái sinh làm
người họ có đầy đủ sức khỏe.
3. Tại sao có
người mặt mày xấu xí khó coi, có người mặt mày đẹp đẽ dễ nhìn.
Một số người thường hay giận dữ. Người
ta chỉ chỉ trích một tí thôi là đã nổi sân lên. Với bản chất sân hận, giận dữ
như thế, nên họ phải tái sinh vào bốn đường ác. Khi họ được tái sinh làm người,
do Nghiệp giận dữ mà họ đã tạo, mặt mày họ trở nên xấu xí.
Như vậy, nóng giận, sân si là nguyên
nhân làm cho người xấu xí. Chúng ta có thể dễ dàng để hiểu điều này. Ngay cả
khi chúng ta đang sống trong đời sống hiện tại này, khi giận dữ thì mặt mày
chúng ta cũng thật xấu xí; khi giận dữ mặt mày hung dữ, dễ sợ. Nếu chúng ta
muốn biết khi giận dữ mặt mày chúng ta xấu xí như thế nào thì mỗi lần giận dữ
hãy nhìn vào gương soi, lúc đó, chúng ta sẽ thấy chúng ta xấu xí?
Những người đẹp đẽ có bản chất không
giận dữ. Họ là những người luôn luôn đối xử tốt với người khác, và họ không dễ
dàng giận dữ. Bởi vậy, nếu bạn muốn đẹp đẽ ngay cả trong kiếp sống này thì đừng
giận. Một trong những nguyên nhân giúp bạn có gương mặt đẹp đẽ là cố gắng hành
thiền từ ái. Như vậy, nguyên nhân của sự xấu xí là giận dữ, và nguyên nhân của
đẹp đẽ là không giận dữ, có lòng từ ái. Điều này chứng tỏ cho ta thấy rằng: Nếu
chúng ta muốn đẹp đẽ, nếu chúng ta muốn gương mặt chúng ta vui vẻ dễ thương thì
chúng ta đừng bao giờ dễ dàng giận dữ.
4. Tại sao có
người cô thế, có người đầy quyền uy.
Đôi khi bạn gặp những người đầy quyền
uy, lời họ nói ra đầy uy quyền, và họ ảnh hưởng đến người khác, khiến người
khác phải nghe theo, đi theo họ. Cũng có những người không có quyền uy, họ
không có uy quyền để làm việc gì. Có nhiều người, mặc dầu có chức vụ lớn, địa
vị cao, có tiền của nhiều, nhưng họ nói không ai nghe.
Nguyên nhân tại sao?
Có những người có quyền cao, chức trọng
nhưng không làm người khác nể phục, không ảnh hưởng đến người khác bởi vì kiếp
trước họ có tánh hay ganh tỵ. Thấy ai được lợi, được danh, được người khác tôn
trọng, kính nể thì họ cảm thấy khó chịu và ganh ghét. Người nào hay ganh tỵ, đố
kỵ, ganh ghét khi thấy người khác được lợi lộc, được vinh dự v.v… thì chắc chắn
người đó sẽ bị cô thế, không có thẩm quyền hay năng lực ảnh hưởng tới người
khác trong kiếp sống tương lai. Những người có thẩm quyền được mọi người tùng phục
nghe theo trong đời sống này là những người không ganh tỵ trước những thành
công, lợi lộc, sự tôn trọng, hay sự kính nể của người khác. Ganh tỵ là nguyên
nhân khiến trong kiếp sống này chúng ta trở thành người không có uy quyền,
không ảnh hưởng đến người khác. Ngược lại, không ganh tỵ, không đố kỵ là nguyên
nhân khiến trong kiếp sống này chúng ta có uy quyền, có ảnh hưởng đến người
khác.
5. Tại sao có
người nghèo nàn đói khổ, có người giàu sang sung túc?
Những người nghèo khổ trong kiếp sống này
là những người kiếp trước không biết bố thí, giúp đỡ thực phẩm, áo quần, vật
dụng khác cho Sa Môn, Bà La Môn và những người khác. Họ là những người không
thực hành hạnh bố thí. Những người giàu có trong kiếp sống này là những người
thực hành hạnh bố thí trong những kiếp trước. Họ đã bố thí cúng dường thức ăn,
thức uống, áo quần, thuốc men, và những vật dụng khác cho mọi người. Thực hành
hạnh bố thí là nguyên nhân của sự giàu có, và không thực hành hạnh bố thí hay
bủn xỉn, keo kiệt là nguyên nhân của sự nghèo nàn. Như vậy, bủn xỉn, keo kiệt,
không dám cho ai thứ gì là nguyên nhân của sự nghèo khổ.
6. Tại sao
có người sinh ra trong gia đình thấp kém, hạ liệt, trong giai cấp bần cùng, có
người sinh ra trong gia đình quyền quí, trong giai cấp cao sang?
Nguyên nhân được sinh vào gia đình quyền
quí, giai cấp cao sang thì do những nguyên nhân ngược lại. Những người này kiếp
trước không kiêu hãnh, tự cao, tự đại. Họ thường tôn kính lễ bái những bậc đáng
tôn kính lễ bái. Họ đứng dậy, tỏ vẻ tôn trọng những người đáng được đứng dậy tỏ
vẻ tôn trọng. Họ biết nhường chỗ ngồi cho những người đáng được nhường chỗ
ngồi. Họ nhường lối đi cho những bậc đáng được nhường lối đi. Họ tôn kính, lễ
độ đối với những bậc đáng được tôn kính, lễ độ.
Tóm lại, tự cao, tự đại là nguyên nhân
của sự sinh trưởng trong gia đình thấp kém, và không tự cao tự đại, biết tôn
kính là nguyên nhân được sinh ra ở những gia đình cao sang.
7. Tại
sao có người ngu dốt, thiếu trí tuệ, có người thông minh sáng suốt?
Nguyên nhân của sư thiếu trí tuệ, ngu
dốt, trì độn, và nguyên nhân của sự thông minh sáng suốt, trí tuệ minh mẫn là
biết đặt câu hỏi hay không đặt câu hỏi.
Những người không chịu gần bậc thiện trí
thức để học hỏi. Không chịu đặt câu hỏi để biết thế nào là thiện, thế nào là
ác, những gì cần phải làm, những gì không nên làm v.v... Những người không chịu
tìm tòi học hỏi, đặt câu hỏi thì sẽ tái sinh thành người chậm lụt, thiếu trí
tuệ hoặc dễ trở thành ngu đần. Những người nào luôn luôn tìm tòi, học hỏi, biết
hỏi han thế nào là hành động thiện, thế nào là hành động ác, điều gì thích nghi
và điều gì không thích nghi, việc gì nên làm và việc gì không nên làm. Những
người đó tái sinh làm người thông minh sáng suốt, bậc trí tuệ. Như vậy, đặt câu
hỏi, tìm hiểu giáo pháp là nguyên nhân của sự thông minh trí tuệ, không đặt câu
hỏi, là nguyên nhân của sự kém trí tuệ.
Như vậy, bây giờ các bạn đã biết, đã
hiểu do nguyên nhân gì, do thực hành điều gì đưa đến kết quả gì?
- Giết hại chúng sinh đưa đến
chết yểu hay có đời sống ngắn ngủi. Thực hành giới không sát sinh sẽ đưa đến sự
trường thọ. Như vậy, có hai sự lựa chọn:
- Nếu bạn muốn sống lâu thì
đừng giết hại chúng sinh khác. Nếu bạn không cần sống lâu; cho rằng: sống lâu
hay chết sớm cũng không thành vấn đề thì đừng giữ giới này.
- Nếu bạn muốn được khỏe mạnh
trong tương lai thì đừng đánh đập hay làm tổn thương đến thân thể người khác.
- Nếu bạn muốn đẹp đẽ thì
đừng sân hận.
- Nếu bạn muốn có uy quyền,
ảnh hưởng đến người khác và được người khác tôn trọng thì đừng ganh tỵ hay đố
kỵ.
- Nếu bạn muốn
giàu có thì hãy bố thí.
- Nếu bạn muốn sinh
trưởng trong gia đình quyền quí, cao sang thì phải biết khiêm nhường, không tự
cao, tự đại.
- Nếu bạn muốn thông minh,
trí tuệ thì hãy đặt câu hỏi.
Đó là những nguyên nhân đã tạo ra sự
chênh lệch, sự bất đồng giữa người này và người khác.
Đức Phật đã trả lời câu hỏi do chàng
thanh niên Subha đặt ra và cuối bài giảng, một lần nữa, Đức Phật dạy rằng:
Tất cả chúng sinh đều có Nghiệp là gia
tài sản của họ. Họ là kẻ thừa kế của Nghiệp mà họ đã tạo. Chính Nghiệp đã làm
cho người này khác với người kia.
Như vậy, Đức Phật đã trả lời cho chàng
thanh niên Shuba hiểu rằng: Tất cả sự bất đồng của con người không phải được
tạo ra bởi Thượng Đế, Chúa Trời, Thần Thánh hay một cái gì cả. Do Nghiệp hay
những hành vi tạo tác bởi thân, khẩu, ý của mỗi người mà họ sẽ nhận chịu những
kết quả khác nhau. Do Nghiệp của chính họ trong quá khứ khiến họ sống lâu hay
chết yểu, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay ngu dốt. Chính Nghiệp đã tạo
ra sự bất đồng trong kiếp hiện tại này. Và Nghiệp là gì mà nó tạo ra sự bất đồng
của chúng sinh?
Kamma (Nghiệp) thường được dịch là hành
động. Thật ra, nghĩa chính xác của Nghiệp là tâm sở “cố ý” (Cetana) - Sự cố ý
là một tâm sở hay một yếu tố - có nghĩa là muốn hay cố ý để làm một chuyện gì
đó qua thân, khẩu, ý. Nghiệp chính thật là sự cố ý để làm một việc gì. Do “sự
cố ý” này, người ta thực hiện hành động, lời nói hay ý nghĩ. Bởi vì mọi hành
động, lời nói hay ý nghĩ đều được đi kèm với “sự cố ý” hay Nghiệp. Do đó, chữ
Kamma hay Nghiệp nên dịch là sự “cố ý”, chứ không nên dịch là hành động. Chúng
ta phải thận trọng về nghĩa của chữ Nghiệp, nếu không khi nói đến Nghiệp, chúng
ta lại nghĩ đó là hành động.
Nếu chúng ta muốn dùng chữ cho chính xác
thì chúng ta phải nói Nghiệp là sự cố ý.
Như vậy, Nghiệp hay sự cố ý là một tâm
sở khởi sinh trong các loại tâm của chúng ta. Bởi vì, là một tâm sở nên nó có
đặc tính: “khởi sinh rồi lại hoại diệt ngay”. Đặc tính sinh, diệt là đặc tánh
chung của mọi sự vật trên thế gian. Mọi sự vật trên thế gian là Vô Thường. Mọi
sự vật đều có đặc tính khởi sinh rồi hoại diệt, đến rồi đi. Tâm sở cố ý cũng
sinh và diệt như các tâm sở khác. Nhưng một điều cần lưu ý ở đây là: các tâm sở
khác khởi sinh rồi hoại diệt ngay và chẳng để lại một chút ảnh hưởng nào cả.
Nhưng tâm sở cố ý khi hoại diệt vẫn còn để lại tiềm năng đưa đến những hậu quả
sau này. Tiềm năng của Nghiệp này nằm trong 'luồng tồn sinh' (hộ kiếp) của Tâm.
Đó là lý do tại sao khi có điều kiện thuận lợi thì Nghiệp trổ quả.
Một lần nọ, vua Milanda hỏi Đại đức
Nāgasena rằng:
"Bạch Ngài, Ngài có thể
chỉ cho tôi biết Nghiệp chứa đựng ở đâu không?".
Ngài Nagasena trả lời:
"Không thể nào, nói một cách chính
xác, Nghiệp được tồn trữ ở đâu. Nhưng Nghiệp tùy thuộc vào luồng bhavanga
(luồng tồn sinh, luồng hộ kiếp), tùy thuộc vào Vật Chất và Tâm. Khi luồng tồn
sinh gặp những điều kiện thuận lợi thì Nghiệp sẽ trổ quả".
Mặc dầu chúng ta không thể nói một cách
chính xác Nghiệp đã được tích chứa ở đâu, nhưng khi có điều kiện thuận tiện để
cho Nghiệp tốt trổ sinh thì sẽ có quả. Như vậy, Nghiệp này, sự cố ý này, khi
biến mất thì nó còn để lại một cái gì đó, để lại tiềm năng trong luồng tồn sinh
(bhavanga) của chúng sinh, khi có điều kiện thuận tiện thì chúng sinh sẽ nhận
chịu hậu quả.
Ngài Nāgasena đã đưa ra một ví dụ về cây
xoài: “Chúng ta không thể nào nói rằng: trái xoài đã chứa ở đâu trong cây xoài:
ở trong rễ, trong thân, hay trong cành, nhưng khi đến mùa, khi có đủ độ ẩm, khi
có thời tiết thích hợp, khi có điều kiện thuận lợi… thì quả sẽ hình thành và
cây sẽ trổ quả. Cũng vậy, mặc dầu không thể nói Nghiệp cất chứa ở đâu, nhưng
khi có đủ điều kiện thuận tiện thì chúng ta sẽ nhận được quả của Nghiệp.
Sau khi đã hiểu thế nào là Nghiệp, chúng
ta cũng cần nên hiểu những gì không phải là Nghiệp.
NHỮNG GÌ KHÔNG PHẢI LÀ NGHIỆP?
Một số học thuyết quan niệm rằng: con
người bị chi phối bởi Số Phận hay Tiền Định. Và Số Phận hay Tiền Định là cái gì
được áp đặt lên chúng sinh bởi quyền lực kỳ diệu khó biết được, hoặc bởi thần
thánh, bởi Thượng Đế, bởi Phạm Thiên… Nghiệp không phải là số phận hay Tiền
Định theo quan niệm đó.
Mỗi khi chúng ta đau khổ về chuyện gì
hay mỗi khi chúng ta đạt được cái gì ta muốn, chúng ta nói:
"Đây là quả của Nghiệp"
Hay là chúng ta chỉ đơn giản nói:
"Đây là Nghiệp của ta".
Nhưng nếu gọi hay định nghĩa Nghiệp là
số phận hay là tiền định đã được đặt định lên kẻ khác thì Nghiệp ta nói đây
không phải là số phận hay tiền định đó.
Kamma (Nghiệp) là những gì chúng ta đã
cố ý làm trong quá khứ, và ta nhận chịu hậu quả của Nghiệp mà ta đã tạo, nhưng
quả của Nghiêp đã tạo có thể xảy ra trong hiện tại hay trong tương lai.
- Quả của Nghiệp là hậu quả
đương nhiên của Nghiệp.
- Quả của Nghiệp tốt
hay xấu không phải do Thánh Thần, Thượng Đế, Phạm Thiên tạo ra.
- Quả của Nghiệp, không phải
là sự ban thưởng hay sự trừng phạt của Thần Linh, Thượng Đế v.v...
- Quả tốt chúng ta gặt được
không phải là phần thưởng của Thánh Thần, Thượng Đế.
- Quả xấu chúng ta gặt
được không phải là hình phạt của Thánh Thần, Thượng Đế.
Những gì chúng ta gặt được đó là quả của
những gì chúng ta đã làm. Quả của Nghiệp là của chính chúng ta, là kết quả của
những gì chúng ta đã làm với sự cố ý. Như vậy, Nghiệp không phải là số phận hay
tiền định do một quyền năng nào đó đặt định lên chúng ta mà Nghiệp là của sở
hữu của chúng ta. Chúng ta nhận quả tốt hay quả xấu đều do chúng ta làm.
Tóm lại, quả của Nghiệp không do ai tạo
ra mà là kết quả đương nhiên của Nghiệp mà ta đã tạo.
Có người nghĩ rằng: chấp nhận Nghiệp
chẳng khác nào "chủ bại" hay Nghiệp là chủ thuyết "chủ
bại". Người theo chủ nghĩa "chủ bại" chấp nhận tất cả những gì đến
với họ, và không thể làm gì để cải thiện chính mình. Đây là một quan niệm sai
lầm. Nghiệp không phải như thế.
Do tạo Nghiệp tốt ta sẽ nhận quả tốt
ngay trong kiếp sống hiện tại. Như vậy, Nghiệp không phải là lý thuyết chủ bại.
Nghiệp không phải là chủ bại, chấp nhận hay cam chịu với những gì xảy đến cho
mình, mà không tìm cách tránh né hay cải thiện. Chúng ta chấp nhận rằng: những
gì tốt xấu xảy ra cho ta là do quả của Nghiệp, nhưng chúng ta cải thiện hoàn
cảnh của chúng ta bằng cách tạo ra những Nghiệp thiện mới. Như vậy, Kamma không
phải là thuyết "chủ bại" như một số người hiểu lầm.
CÓ THỂ BIẾN CẢI QUẢ CỦA NGHIỆP KHÔNG?
Một câu hỏi kế tiếp là: Chúng ta có thể
biến đổi hay cải thiện các tác động hay hậu quả của Nghiệp không?
Ngay chính Đức Phật cũng không can thiệp
vào sự tác động của Nghiệp. Chẳng hạn như khi hoàng tử Vidūdabha quyết ý giết
hại thân quyến của Đức Phật. Đức Phật không thể can thiệp được bởi vì đây là
quả của Nghiệp mà thân quyến của Đức Phật đã tạo ra trước đây nên họ phải bị
hoàng tử Vidūdabha tiêu diệt. Như vậy, Đức Phật không thể ngăn chặn quả khổ mà
thân bằng quyến thuộc Ngài phải trả. Lý do là vì luật Nghiệp Báo là một luật tự
nhiên. Luật Nghiệp Báo không do ai tạo ra. Luật Nghiệp Báo không do Thượng Đế,
ông trời hay thánh thần nào tạo ra cả. Đây là một luật tự nhiên. Bởi vì Nghiệp
là luật tự nhiên, do đó không ai có thể can thiệp vào tác động của Nghiệp.
Mặc dầu không thể can thiệp vào tác động
của Nghiệp, nhưng chúng ta có thể biến đổi được phần nào tác động của Nghiệp.
Đó là chúng ta có thể tạo ra những điều kiện bất thuận lợi cho Nghiệp bất thiện
trổ quả. Nghĩa là chúng ta có thể, hay làm cho Nghiệp bất thiện chậm trổ quả
hơn. Bởi vì, như tôi đã nói trước đây, Nghiệp chỉ trỗ quả khi có điều kiện thuận
lợi. Khi không có điều kiện thuận lợi thì Nghiệp sẽ ở đó chờ.
Nếu chúng ta tạo những điều kiện bất
thuận lợi cho Nghiệp bất thiện trổ quả thì chúng ta có thể không nhận chịu hậu
quả của Nghiệp bất thiện. Mặc dầu, không thể can thiệp vào luật Nghiệp báo, không
thể thay đổi luật Nghiệp Báo, nhưng chúng ta có thể tạo ra những điều kiện bất
thuận lợi hay tạo ra các nghịch duyên cho Nghiệp trổ quả. Ít nhất chúng ta có
thể đình hoãn được sự trổ quả của Nghiệp trong một thời gian.
Chúng ta không thể can thiệp vào những
tác động của Nghiệp. Chúng ta không thể thay đổi dòng Nghiệp, nhưng chúng ta có
thể làm cho hiệu quả của Nghiệp xấu triển hạn một thời gian - trong một số
trường hợp hay trong một giới hạn nào đó. Không ai có thể xóa tan tất cả Nghiệp
lực hay xóa tan toàn thể một Nghiệp lực nào mà mình đã tạo. Có nghĩa là không
ai có thể tiêu trừ tất cả Nghiệp hay tất cả những quả của Nghiệp đã tạo, như
vậy mọi người phải nhận chịu những hậu quả của Nghiệp mà mình đã tạo trong quá
khứ.
Tuy nhiên, vào lúc Giác Ngộ Đạo Quả A La
Hán tất cả các Nghiệp đều bị tiêu diệt. Tâm Đạo vào lúc Giác Ngộ tầng thánh thứ
tư được gọi là "tâm đã hoàn thành trách nhiệm tiêu diệt Nghiệp". Như vậy, vào lúc đạt đạo quả A La Hán tất cả các Nghiệp đều
diệt. Điều này không có nghĩa là tất cả các Nghiệp trong quá khứ đều bị diệt và
vị A La Hán không còn nhận chịu các quả của Nghiệp quá khứ. Nhưng điều xảy ra
là vào lúc Giác Ngộ A La Hán tất cả các phiền não đều bị diệt ngay vào lúc ấy.
Khi tâm không còn phiền não thì những gì vị đó làm thì chỉ đơn thuần là làm
thôi mà không tạo nên Nghiệp nào nữa bởivì vị A La Hán không còn dính mắc vào
đời sống nào cả hay không còn dính mắc vào sự hiện hữu nào cả. Vị A La Hán
không còn vô minh. Bởi thế, những gì vị A La Hán làm thì chỉ là tác động thôi
mà không tạo ra Nghiệp. Nói cách khác, Vị A La Hán hay Đức Phật không còn tích
lũy những Nghiệp mới nữa. Các Ngài không tạo nên Nghiệp mới nào dầu các Ngài có
làm điều thiện đi nữa. Đức Phật đã dạy cho nhiều chúng sinh, Đức Phật đã giúp
cho nhiều người thoát khỏi đau khổ. Những vị A La Hán cũng làm nhiều điều thiện
lành cho các nhà sư khác và cho mọi người, nhưng các Ngài không gặt hái quả tốt
khi các Ngài làm việc tốt. Những tác động của các Ngài hay Nghiệp của
các Ngài được gọi là "Kiriya" (Duy tác) nghĩa là chỉ có tác động, chỉ
có hành động xảy ra. Tất cả các Nghiệp đều hoàn toàn bị tiêu diệt ở tầng thánh
thứ tư có nghĩa là sau khi vị này đạt tầng thánh thứ tư thì không còn tạo tác
các Nghiệp nào nữa, và bởi vì không có Nghiệp nên sẽ không có quả của Nghiệp
trong tương lai.
Như vậy những Nghiệp các Ngài đã tạo
trong quá khứ hay những Nghiệp cũ thì như thế nào? Các Ngài vẫn còn nhận chịu
quả của những Nghiệp cũ, như Đức Phật vẫn còn đau khổ vì bị nhức đầu v.v...
Những vị A La Hán khác vẫn còn bị đau khổ bởi bệnh tật và còn nhận chịu những
quả của Nghiệp quá khứ. Các bạn còn nhớ chuyện Ngài Moggallāna đã bị năm trăm
tên cướp giết chết v.v... Như vậy mặc dầu Phật và các vị A La Hán không tạo những
Nghiệp mới, nhưng các Ngài vẫn còn những Nghiệp cũ nên các Ngài vẫn còn hưởng
thụ hay nhận chịu hậu quả của những Nghiệp các Ngài đã làm trong quá khứ. Nhưng
sau khi các Ngài nhập diệt, các Ngài không còn tái sinh nữa, nên những Nghiệp
các Ngài đã tích tụ trong quá khứ không thể trả quả sau khi các Ngài chết.
Các bạn đã biết câu chuyện của Ngài
Anguli-māla. Angulimāla đã giết cả ngàn người. Đức Phật đến gặp ông ta và dạy
đạo cho ông, sau đó ông trở thành một nhà sư và đắc quả A La Hán. Là một vị A
La Hán, nhưng trước khi chết Ngài Angulimāla còn phải chịu đau khổ vì hậu quả
của những Nghiệp bất thiện Ngài đã làm. Trước khi trở thành một nhà sư, Ngài đã
tạo nhiều Nghiệp bất thiện. Nếu không trở thành một vị A La Hán, những Nghiệp
bất thiện này sẽ trả cho Ngài rất nhiều kiếp. Nhưng sau khi đã đắc quả A La
Hán, Ngài Angulimāla không còn tái sinh nữa nên những Nghiệp ác mà Ngài đã làm
không thể cho quả. Như vậy, đối với Ngài Angulimāla, Nghiệp bất thiện đã trở
thành vô hiệu.
Giống như trường hợp một người sau khi
phạm tội đại hình thì bị chết, và vì người này đã chết rồi nên quan tòa không
thể xử phạt y nữa. Cũng vậy, khi một vị A La Hán tịch diệt, các Ngài không còn
tái sinh nữa. Bởi vì không còn tái sinh nên những Nghiệp cũ không thể trả quả
cho các Ngài sau khi các Ngài chết. Nghiệp của các Ngài đã trở thành vô hiệu.
Khi ta nói những vị A La Hán đã hoàn thành việc tiêu diệt Nghiệp, điều này có
nghĩa là các Ngài không còn tạo các Nghiệp mới nữa, nhưng các Ngài vẫn còn nhận
chịu quả của các Nghiệp mà các Ngài đã tạo trong quá khứ.
Nhiều Nghiệp trở thành vô hiệu có nghĩa
là những Nghiệp này không còn trả quả cho Chư Phật và Chư A La Hán khi các Ngài
đã mất; bởi vì Phật và A La Hán không còn tái sinh nữa.
Chúng ta không muốn nhận chịu quả của
những Nghiệp dữ, nếu vậy thì chúng ta đừng làm những Nghiệp dữ nữa. Nếu chúng
ta đã làm Nghiệp dữ rồi thì sao? Đối với những Nghiệp dữ đã làm bây giờ chúng
ta phải làm thế nào đây? Đức Phật dạy: "Dầu chúng ta có ăn năn hối hận về
những Nghiệp xấu đã làm trong quá khứ thì Nghiệp xấu cũ đó cũng không thể nào
sữa chữa lại". Những việc chúng ta đã làm rồi thì chúng ta không thể trở
lại quá khứ để làm lại. Cái gì đã làm thì đã làm rồi, bởi thế ăn năn hối hận
càng làm cho tình thế tệ hại hơn, và càng tích lũy nhiều hành vi bất thiện hơn.
Càng ăn năn hối hận bao nhiêu, càng tiếc nuối bao nhiêu thì càng tăng thêm các
Nghiệp ác đã tạo bấy nhiêu. Như vậy, ý Đức Phật muốn nói: "Quên nó
đi". Đừng nhớ đến những Nghiệp quá khứ, vì càng nhớ thì càng tạo thêm
Nghiệp bất thiện. Quên đi những Nghiệp bất thiện được gọi là "từ bỏ
những Nghiệp bất thiện này, và trong tương lai nguyện tránh xa các hành vi bất
thiện đó".
Như vậy, đối với những Nghiệp quá khứ đã
tạo, trước tiên chúng ta đừng nghĩ đến chúng nữa, đừng hối hận vì đã làm những
Nghiệp xấu đó nữa đồng thời cố gắng tránh xa hay tự chế không làm các hành vi
hay Nghiệp xấu đó trong tương lai. Điều này được gọi là "loại trừ các
Nghiệp xấu" hay "vượt qua các Nghiệp xấu". Như vậy, nếu chúng ta
đã làm Nghiệp xấu trong quá khứ thì chúng ta đừng nhớ đến chúng nhiều lần, đừng
ăn năn hối hận về chúng nhiều lần nữa, hãy để chúng sang một bên, cho chúng về
quá khứ và từ nay tự chế, ngăn ngừa không làm những hành vi bất thiện tương tự
trong tương lai. Bằng cách này, chúng ta đã để lại đàng sau tất cả những Nghiệp
bất thiện.
NHỮNG
HIỂU BIẾT SAI LẦM HAY TÀ KIẾN VỀ KAMMA (NGHIỆP)
1. Tà kiến hay sự hiểu biết sai lầm thứ
nhất:
"Tất cả những Cảm Thọ mà một người
nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp
quá khứ. Người nào quan niệm như vậy là tà kiến".
Bạn có đồng ý như vậy chăng? Tôi xin lập
lại "Những Cảm Thọ mà một người nhận chịu: Lạc thọ, khổ thọ hay
vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ. Ai quan niệm như vậy là tà
kiến".
Muốn hiểu câu nói này thì bạn phải hiểu
về những Cảm Thọ hay hiểu tất cả những tâm quả đi kèm với tâm sở thọ, chúng đi
kèm với những tâm thiện và bất thiện, và chúng đi cũng đi kèm với tâm Kiriya
(tâm duy tác), khởi sinh trong tâm vị A La Hán.
Đối với những Cảm Thọ đi kèm với tâm quả
thì câu này đúng, phải không? Đúng vậy. Bởi vì, giả sử tôi đau ở đây; và tôi
kinh nghiệm về sự đau là kết quả của Nghiệp quá khứ. Đó là tâm quả; điều này
đúng. Nhưng ngay trong khi chúng ta làm các hành vi thiện hay bất thiện trong
hiện tại thì chúng ta có "tâm thiện" và "tâm bất thiện".
Trong tâm thiện và bất thiện đó có sẵn lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ. Những thọ
này đâu phải là kết quả của Nghiệp quá khứ, những thọ này là những gì ta tạo
trong hiện tại. Tâm khởi sinh trong các vị Phật và các vị A La Hán cũng vậy.
Các Ngài cũng có lạc thọ, khổ thọ (về thân) hay vô ký thọ. Những Cảm Thọ của
các Ngài hay những kinh nghiệm về những Cảm Thọ của các Ngài không phải là kết
quả của Nghiệp. Như vậy, nếu bạn nói rằng: những Cảm Thọ: lạc khổ hay vô ký mà
một người đã nhận chịu là quả của Nghiệp trong quá khứ thì đó là quan niệm sai
lầm.
2. Tà kiến hay sự hiểu biết sai lầm thứ
hai:
"Những Cảm Thọ lạc, khổ và vô ký mà
ta kinh nghiệm được tạo ra bởi đấng sáng tạo hay Thượng Đế. "
Điều này có nghĩa là những Cảm Thọ mà
một người có thể kinh nghiệm được do Thượng Đế tạo ra. Thượng Đế tạo ra niềm
vui, tạo ra sự khổ cho họ. Nếu bạn quan niệm như vậy thì đó cũng là tà kiến hay
sự hiểu biết sai lầm về Kamma.
Thật vậy, cho rằng: Thượng Đế tạo ra
niềm vui, tạo ra sự khổ là một quan niệm thật sai lầm!
3. Tà kiến hay sự hiểu biết sai lầm thứ
ba:
“Tất cả các Cảm Thọ: lạc, khổ, vô ký mà
một người nhận chịu chẳng có nguyên nhân, chẳng có điều kiện gì cả”.
Chẳng có Cảm Thọ nào khởi sinh mà không
có nhân duyên. Mọi Cảm Thọ đều tùy thuộc vào nhân duyên. Không có nguyên nhân
(nhân), không có điều kiện (duyên) thì Cảm Thọ không thể khởi sinh. Nói rằng:
"Hạnh phúc hay đau khổ của người này... chẳng có nhân duyên gì cả” Đó là
câu nói sai lầm".
Nói rằng: “Lạc thọ, khổ thọ
được tạo ra bởi Chúa Trời hay Thượng Đế” thì cũng sai lầm. Bởi vì
tất cả mọi sự vật đều phát sinh do một số điều kiện nào đó chứ không
phải được sáng tạo bởi Trời hay Thượng Đế.
Nói rằng: “Những Cảm Thọ khởi
sinh chẳng do nguyên nhân hay điều kiện nào cả”. Đó cũng là một câu
nói sai lầm bởi vì “tất cả mọi sự vật đều phát sinh do một số điều
kiện nào đó chứ không phải tự nhiên phát sinh”.
Quan niệm sai lầm thứ hai: “Cảm Thọ được
tạo ra bởi Chúa Trời” và quan niệm
sai lầm thứ ba: “Cảm Thọ khởi
sinh chẳng do nhân duyên nào cả”, Hai quan niệm này thật dễ hiểu, nhưng
quan niệm sai lầm đầu tiên: "Những Cảm Thọ mà một người nhận
chịu đều là kết quả của Nghiệp quá khứ” hơi khó hiểu một chút. Muốn
hiểu quan niệm đầu tiên này bạn phải hiểu Abhidhamma.
Có một đoạn văn rất quan trọng, nhưng
cũng rất khó hiểu là: "Ta không hề dạy rằng: Nghiệp
đã làm có thể bị tiêu diệt mà không phải trả các quả trong đời sống này, trong
đời sống kế tiếp hay trong đời sống kế tiếp nữa". Tôi nghĩ rằng: câu này
cũng không khó hiểu lắm, chúng ta có thể hiểu như vầy: “Nghiệp sẽ không bị
tiêu diệt nếu chưa trả quả”, có nghĩa là “khi Nghiệp chưa trả quả thì
Nghiệp chưa diệt” và “sau khi đã trả quả thì Nghiệp diệt mất”, đại khái
như vậy. Điều này không khó hiểu.
Nhưng câu kế tiếp rất khó hiểu: "Ta
không dạy rằng: Có thể làm cho Nghiệp đã tạo chấm dứt mà không cần phải
trả". Câu này có nghĩa là: “Ta không dạy rằng: có thể chấm dứt
đau khổ mà không cần phải trả quả của các Nghiệp đã tạo”. Có nghĩa là
trước khi chấm dứt sự đau khổ bạn phải nhận chịu những hậu quả của nó.
Câu này khiến tôi suy nghĩ nhiều. Thật
là một vấn nạn cho tôi: "Trước khi chấm dứt sự đau khổ, bạn phải
nhận chịu những hậu quả của nó". Như vậy có nghĩa là: “Nếu bạn
chưa nhận chịu quả của các Nghiệp đã tạo thì bạn không thể chấm dứt đau khổ”.
Hoặc là: Nếu bạn muốn chấm dứt đau khổ thì bạn phải trả hết các quả của
Nghiệp đã tạo? Phải vậy chăng?
Thế thì câu này có nghĩa như thế nào?
Tôi cũng không biết nữa! Tôi muốn các bạn suy nghĩ về điều đó. Nhưng đừng suy
nghĩ trong khóa thiền này. Sau khóa thiền này, về nhà các bạn hãy suy nghĩ
nhiều lần, và tôi sẽ cho biết ý kiến của tôi trong khóa thiền tới.
Khi tôi đọc câu trên, tôi không hiểu,
tôi bèn đọc Chú Giải. Nhưng Chú Giải chẳng giải thích tý nào về câu này. Chú
Giải giữ im lặng. Tôi bèn giở Phụ Chú Giải ra để xem. Nhưng Phụ Chú Giải cũng
chẳng nói gì. Cả hai Chú Giải và Phụ Chú Giải đều làm tôi đau khổ. Như vậy, khi
hỏi câu hỏi này, tôi cũng làm các bạn đau khổ. Các bạn hãy suy nghĩ về điều này
và chúng ta sẽ gặp lại trong kỳ tới...
Nghiệp (Tiếp theo)
Trong khóa thiền vừa rồi, khi nói về
luật Nghiệp Báo tôi đã gởi đến các bạn một đoạn văn về Nghiệp báo. Đoạn văn này
nói: "Ta không hề dạy rằng: Nghiệp đã tạo có thể bị
tiêu diệt không phải trả các quả trong đời sống này, trong đời sống kế tiếp hay
trong đời sống kế tiếp nữa".
Những điều Đức Phật dạy là: "Ta
không dạy rằng: có thể chấm dứt Nghiệp đã tạo, đã tích lũy,
mà không phải nhận chịu hậu quả của chúng”, điều này có nghĩa là “Nghiệp
sẽ không bị tiêu diệt khi chưa được trả quả trong đời sống này, trong đời
sống kế tiếp, hay trong các đời sống kế tiếp nữa”. Đức Phật tiếp tục: "Ta
không dạy rằng: Sự đau khổ có thể chấm dứt mà không cần phải nhận chịu hậu quả
của các Nghiệp đã tạo". Câu này có nghĩa là: “Không thể chấm dứt
sự đau khổ khi chưa nhận chịu hậu quả của Nghiệp đã tạo” hay: “Phải
nhận chịu hết hậu quả của Nghiệp đã tạo, đau khổ mới chấm dứt”.
Trước tiên khi đọc câu này, chúng ta cảm
thấy hơi kỳ lạ, câu đầu tiên nói rằng: "Nghiệp sẽ không chấm dứt nếu quả
của chúng chưa được trả”. Quả của các Nghiệp có thể trả trong kiếp sống này,
trong kiếp sống kế tiếp hay trong các kiếp sống tiếp theo nữa. Nhưng theo luật
về Nghiệp báo thì Nghiệp sẽ vô hiệu nếu nó không trả quả vào lúc nó phải trả
quả. Có những Nghiệp trả quả trong kiếp sống này, có những Nghiệp trả quả trong
kiếp sống tới, có những Nghiệp trả quả trong những kiếp sống sau kiếp tới và vô
số kiếp sau đó nữa, cho đến khi chúng ta trở thành một vị A La Hán và chết.
Nếu Nghiệp phải trả quả trong kiếp sống
này mà không trả quả được bởi vì thiếu điều kiện thuận lợi thì Nghiệp này vô
hiệu. Những Nghiệp phải trả quả trong kiếp này, nhưng nếu Nghiệp đó không trả
quả vì lý do nào đó thì chúng trở thành vô hiệu và chúng sẽ không trả quả trong
kiếp tới hay trong những kiếp sau nữa. Cũng vậy, những Nghiệp phải trả quả
trong kiếp kế tiếp, nhưng nếu Nghiệp đó không trả quả trong kiếp kế tiếp vì lý
do nào đó thì chúng trở thành vô hiệu và chúng sẽ không trả quả trong những
kiếp sau nữa, cho đến khi chấm dứt vòng sinh tử luân hồi. Cũng vậy, những
Nghiệp trả quả bắt đầu trong kiếp sống này và kéo dài cho đến các kiếp sau nữa
cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi sẽ trở thành vô hiệu khi chúng ta trở thành
A La Hán và chết.
Những Nghiệp cho quả trong kiếp này, sẽ
không bị tiêu diệt hay vô hiệu nếu chưa trả quả trong kiếp sống này. Nhưng sau
kiếp sống này chúng sẽ không trả quả nữa và trở thành vô hiệu.
Loại Nghiệp thứ hai cho quả trong kiếp
sống tới. Bao lâu chúng trưa trả quả trong kiếp sống tới, và bao lâu mà kiếp
sống tới còn hiện hữu thì Nghiệp đó không trở thành vô hiệu. Khi thời gian cho
quả đã trôi qua, có nghĩa là khi người tạo Nghiệp đã tái sinh trong kiếp tới,
thì Nghiệp này trở thành vô hiệu.
Loại Nghiệp thứ ba cho quả trong kiếp
thứ ba và các kiếp sống tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi, những Nghiệp
này sẽ không vô hiệu bao lâu chúng ta còn ở trong vòng sinh tử luân hồi.
Ở đây, Chú Giải giải thích
rằng: chúng ta không thể nào thoát khỏi hậu quả của Nghiệp khi chúng ta còn ở
trong vòng sinh tử luân hồi.
Câu thứ hai nói rằng: không thể chấm dứt
sự đau khổ nếu không trả các Nghiệp đã tạo. Câu này có nghĩa là nếu chưa trả
hết quả của Nghiệp đã tạo thì chúng ta không thể chấm dứt đau khổ. Chúng ta
không thể vứt bỏ loại Nghiệp này. Nếu vứt bỏ Nghiệp này, có nghĩa là không nhận
chịu hậu quả của nó, thì đau khổ của chúng ta không thể chấm dứt. Trong thực
tế, làm sao có thể trả hết các Nghiệp quá khứ được, bởi vì Nghiệp quá khứ quá
nhiều, một khối Nghiệp khổng lồ mà chúng ta đã tạo trong nhiều kiếp quá khứ.
Nếu chúng ta phải nhận chịu tất cả quả của Nghiệp tốt xấu, mà ta đã tạo ra từ
trước đến nay, mới có thể chấm dứt được đau khổ thì chẳng bao giờ chúng ta hết
đau khổ được.
Câu trên hàm ý rằng: "Trước khi
chúng ta trở thành A La Hán hay rời bỏ vòng luân hồi sinh tử này thì chúng ta
phải nhận chịu các hậu quả của các Nghiệp đã tạo". Như vậy, tất cả chúng
sinh đều phải nhận chịu hậu quả của Nghiệp đã tạo. Không chúng sinh nào không
nhận chịu hậu quả của các Nghiệp tốt xấu mình đã tạo. Như vậy, những gì hàm ý
trong câu này, theo ý kiến của tôi, là tất cả chúng ta phải nhận chịu hậu quả
của các Nghiệp tốt xấu đã tạo. Nếu chúng ta không trả hết hay nhận chịu hết các
Nghiệp tốt xấu mà mình đã tạo trong quá khứ thì sẽ không chấm dứt được đau khổ.
Hãy lấy trường hợp Trưởng lão
Angulimāla. Như các bạn đã biết, Trưởng lão Angulimāla trước đây là một
tên cướp đã giết cả ngàn người. Khi được gặp Đức Phật, được nghe những lời
giáo hóa của Ngài, Trưởng lão Angulimāla vứt bỏ vũ khí trở thành học trò của
Đức Phật. Sau khi trở thành một nhà sư, Trưởng lão Angulimāla tinh tấn hành
thiền và trở thành một vị A La Hán.
Trong thời gian làm tên cướp, trưởng lão Angulimāla giết cả ngàn người, và đã tạo nhiều Nghiệp ác. Những Nghiệp này sẽ trả quả trong kiếp sống này, sẽ trả quả trong kiếp tới, và sẽ trả quả trong các kiếp sống sau nữa. Những Nghiệp phải trả quả trong kiếp tới và phải trả quả trong các kiếp sống sau nữa sẽ vô hiệu bởi vì Ngài không còn tái sinh nữa, nhưng Ngài phải nhận chịu hậu quả của Nghiệp trả trong kiếp sống hiện tại. Bởi thế trong những ngày làm nhà sư Ngài đã nhận chịu nhiều quả đau khổ như bị đánh đập, ném đá và đói khát vì không ai dâng cúng cho Ngài... Sau khi Trưởng Lão trở thành một nhà sư rồi, nhưng mọi người vẫn còn sợ Ngài. Mỗi khi thấy Trưởng Lão, họ sợ hãi bỏ chạy, vào nhà đóng chặt cửa lại, bởi vậy Ngài rất khó có được đầy đủ thức ăn. Đôi lúc người ta ném đá Ngài, đá trúng đầu Ngài làm bể đầu chảy máu. Ngài đau khổ bởi vì phải nhận chịu quả của các Nghiệp xấu mà Ngài đã tạo, và các Nghiệp này đã cho quả trong kiếp hiện tại. Nhưng với các quả sẽ trả trong kiếp kế tiếp và trong các kiếp sau nữa sẽ trở thành vô hiệu bởi vì Ngài đã ra khỏi vòng luân hồi và khi chết Ngài chết với tư cách là một vị A La Hán. Như vậy, trong trường hợp của Trưởng Lão Angulimāla thì Trưởng Lão đã thành tựu trong việc làm chấm dứt đau khổ mà không cần phải nhận chịu tất cả các hậu quả của Nghiệp đã tạo. Ngài chỉ nhận chịu các quả của Nghiệp trả trong kiếp hiện tại mà thôi.
MỘT
SỐ CÂU HỎI LIÊN QUAN ĐẾN NGHIỆP
Cây cỏ, cát đá có Nghiệp không?
Một số người nghĩ rằng: đây là câu hỏi
khờ dại, nhưng có một số người, hy vọng là không có các bạn ở đây, nghĩ rằng:
Cây cỏ, cát đá có Nghiệp. Theo Phật Giáo cây cỏ, cát đá không phải là chúng
sinh mặc dầu chúng có đời sống, nhưng không phải là sinh vật, theo Vi Diệu Pháp
thì gọi chúng là không có mạng sống, điều này có nghĩa chúng không phải là
chúng sinh. Và vì không phải là chúng sinh cho nên chúng không có Nghiệp. Tuy
không có Nghiệp, nhưng cây cỏ, cát đá cũng tùy thuộc vào một số điều kiện Vật
Chất như độ ẩm, khí hậu, chất bổ dưỡng v.v...
Mặc dầu không có Nghiệp, nhưng chúng cần
có những điều kiện để khởi sinh và sống còn. Như vậy, cây cỏ cát đá cũng cần
một số điều kiện mặc dầu chúng không có Nghiệp. Sự liên hệ nhân quả giữa những
vật vô tri này sẽ được giảng giải sau này với những dẫn chứng về Paṭṭhāna
(Duyên Hệ Duyên).
Đối với súc vật thì chúng có Nghiệp
không? Tất cả súc vật đều có Ngũ Uẩn như con người; bởi thế, chúng là sinh vật
hay chúng sinh, bởi vì là chúng sinh nên chúng có Nghiệp. Chúng sinh tạo Nghiệp
và tích tụ Nghiệp. Loài vật sinh ra làm con vật cũng là kết quả của Nghiệp ác
đã tạo trong quá khứ. Như vậy, loài vật cũng có Nghiệp và cũng có làm hay tạo
ra Nghiệp, nhưng cây cỏ, đất đá và những vật vô tri khác không có Nghiệp.
Một vài đoạn trong sách Visuddhimagga
(Thanh Tịnh Đạo) đề cập đến Nghiệp và quả của Nghiệp, đây là những đoạn văn rất
quan trọng chúng ta cần phải ghi nhớ:
"Nghiệp và quả liên hệ làm thành
một cái vòng giống như hạt giống và cây, cái này sinh ra cái kia, rồi cái kia
sinh ra cái này, khó biết đâu là đầu, đâu là cái bắt đầu". Nghiệp và quả
cái này theo cái kia. Đây là Nghiệp Thiện hay Nghiệp Ác, và do hậu quả của
Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác nên có tái sinh vào bốn đường dữ hoặc tái sinh làm
người hay trời. Trong suốt thời gian chúng sinh đang hiện hữu, chúng sinh tạo
nên các Nghiệp mới. Tạo nên các Nghiệp mới nên phải nhận quả của Nghiệp mới này
trong tương lai. Như vậy, Nghiệp và quả của Nghiệp diễn biến, diễn biến… như
vậy, như vậy...
Cũng như hạt và cây, hạt mọc thành cây
rồi cây lại có hạt, rồi do hạt này lại có cây mới, cây mới lại sinh ra hạt, hạt
mới này lại sinh ra cây… cũng giống như trường hợp chúng ta nói “gà đẻ ra
trứng, trứng nở ra gà”, khó nói cái gì đầu tiên. Chúng tiếp tục diễn biến không
có cái gì đầu tiên. Không thể nào cho ta thấy cái gì khởi đầu. Nếu chúng ta có
thể trở về quá khứ để tìm nhân của nó, thì dầu có trở về bao xa đi nữa, cũng
không bao giờ thấy được cái khởi đầu. Như vậy, không có cái khởi đầu của Nghiệp
và quả của nó mặc dầu có cái vòng luân lưu của Nghiệp và quả trong vòng luân
hồi tái sinh. Không thể nào chỉ ra được trong tương lai vòng tái sinh. Nhưng
trong tương lai chúng chắc chắn sẽ khởi sinh, bởi vì hể có Nghiệp hiện tại thì
sẽ có quả trong tương lai.
Trong triết học của Hindu có lý thuyết
Sam-khya, một trong sáu lý thuyết triết học của đạo này, tin tưởng rằng: quả
có sẵn trong nhân, nhưng dưới trạng thái không hiển lộ, khi nhân hiển
lộ thì nó thành quả. Theo lý thuyết triết học này thì quả đã có sẵn
trong nhân. Khi nhân chín muồi và khi nhân đạt đến tầng mức cao nhất của sự
chín muồi thì biến thành quả. Trong triết thuyết này Nghiệp hay nhân và quả đều
là một.
Phật Giáo không chấp nhận triết thuyết
đó, trong Phật Giáo được dạy rằng: Nghiệp là một chuyện, và quả là một chuyện
khác. Thanh Tịnh Đạo nói: "Không có Nghiệp trong quả, và quả không có mặt
trong Nghiệp". Như vậy, không có Nghiệp ‘trong’ quả và không có quả
‘trong’ Nghiệp.
Nghiệp và quả là hai thứ khác nhau, mặc
dầu trong cái này không có cái kia, mặc dầu chúng khác nhau, nhưng không thể
nào có quả mà không có Nghiệp, và chẳng bao giờ có trường hợp có quả mà không
có Nghiệp. Như vậy, quả và Nghiệp có sự liên hệ nhân và quả. Nhưng quả là một
chuyện và nhân là một chuyện khác, chúng không đồng hóa với nhau.
Muốn tạo nên lửa, người ta có thể dùng
một kính phóng đại để dưới ánh nắng mặt trời; rồi dưới kính phóng đại để một
mãnh giấy hay một miếng bông. Ánh nắng mặt trời xuyên qua kính, hội tụ tại một
điểm, tạo ra sức nóng làm cháy tờ giấy hay miếng bông và tạo ra lửa. Lửa không
nằm sẵn trong ánh nắng mặt trời. Lửa không nằm sẵn trong giấy hay bông gòn. Lửa
cũng không nằm ngoài ánh nắng mặt trời, giấy hay bông gòn. Nhưng khi phối hợp
ba nhóm yếu tố này lại theo điều kiện nào đó thì lửa phát sinh. Chúng đã phối
hợp theo điều kiện. Như vậy, lửa không hiện hữu trong ánh nắng mặt trời, không
hiện hữu trong giấy, không hiện hữu trong miếng bông. Nếu lửa hiện hữu trong
những tia sáng của mặt trời, trong giấy hay trong bông thì chúng đã cháy rồi,
và luôn luôn lúc nào chúng cũng sẽ cháy. Lửa không ở trong chúng; bởi vậy, khi
đặt chúng riêng rẽ thì chúng không thể cháy được; nhưng khi đặt chúng với nhau,
trong một số điều kiện nào đó, thì lửa sẽ phát sinh. Vậy do đâu mà lửa hiện
hữu. Lửa hiện hữu bên trong hay bên ngoài chúng? Chúng ta không thể nói lửa
hiện hữu nơi đâu ngoài những vật đó. Lửa chỉ khởi sinh khi có sự phối hợp của
nhiều thành phần qua phương tiện “điều kiện” hay “tạo duyên”. Điều kiện hay
duyên ở đây là mặt trời, giấy và bông gòn. Khi đặt các thứ ấy với nhau trong
một điều kiện nào đó thì sẽ có lửa, nhưng lửa không hiện hữu trong tia nắng mắt
trời, trong kiếng, trong giấy hay trong bông, nhưng nếu không có những thứ này
thì không thể tạo nên lửa.
Tương tự như vậy, không có Quả trong
Nghiệp và không có Nghiệp trong Quả. "Không thể nào tìm được Quả trong
Nghiệp, không thể nào tìm được Quả ngoài Nghiệp. Không có Nghiệp nào còn duy
trì trong Quả mà nó đã tạo". Như vậy, không thể nào tìm được Quả trong Nghiệp
cũng không thể nào tìm được Quả ngoài Nghiệp. Không có Nghiệp nào còn duy trì
trong Quả mà nó đã tạo. Như vậy Nghiệp không duy trì trong Quả. Có nghĩa là
Nghiệp không nằm trong Quả mà nó đã tạo. Nghĩa là trong Nghiệp không có Quả của
Nghiệp. Không có Quả hiện diện trong Nghiệp, không có Quả nào ở trong Nghiệp,
nhưng Quả vẫn còn sinh ra từ Nghiệp đó. Quả sinh ra từ Nghiệp và hoàn toàn tùy
thuộc vào Nghiệp. Như vậy, tất cả tùy thuộc vào Nghiệp, hoàn toàn tùy thuộc vào
Nghiệp mà Quả của Nghiệp phát sinh.
Không chỗ nào trong vòng luân hồi tái
sinh có thể tìm thấy chúa trời, Thượng Đế hay đấng sáng tạo. "Thật
vậy, vòng luân hồi tái sinh không phải do Đấng Sáng Tạo, Chúa Trời
hay Thượng Đế tạo ra sự vật. Chúng là kết quả tự nhiên của luật Nghiệp
Báo". Chỉ có hiện tượng của Nghiệp và Quả của Nghiệp trôi
chảy mà thôi. Chúng tiếp tục trôi chảy. Sự trôi chảy của hiện tượng Vật Chất và
Tâm này được gọi là vòng tái sinh. Chẳng có Chúa Trời, Đấng sáng tạo hay Thượng
Đế hiện diện, chỉ có hiện tượng tâm vật lý tùy thuộc vào các điều kiện tiếp tục
trôi chảy thôi.
LỢI
ÍCH CỦA SỰ HIỂU BIẾT LUẬT NGHIỆP BÁO
Là những người Phật Tử chúng ta hiểu
luật Nghiệp Báo theo những lời dạy của Đức Phật. Sự hiểu biết về luật Nghiệp
Báo này mang lại nhiều lợi ích. Sau đây là một vài lợi ích.
1. Hiểu biết luật Nghiệp Báo
làm thoả mãn óc tìm tòi hiểu biết của chúng ta về sự bất bình đẳng của người,
của chúng sinh.
Chúng ta muốn biết tại sao chúng sinh
khác nhau, tại sao chúng sinh không giống nhau, mặc dầu chúng đều là chúng
sinh. Tại sao có sự bất đồng giữa người với người, giữa loài vật với loài vật.
Sự bất đồng giữa các chúng sinh đã được giải thích một cách hữu lý theo luật
Nghiệp Báo. Sự hiểu biết về luật Nghiệp Báo thỏa mãn lòng mong mỏi hiểu biết
của chúng ta về sự bất đồng giữa các chúng sinh. Chúng ta không lấy làm ngạc
nhiên khi thấy rằng: nhờ hiểu biết luật Nghiệp Báo mà nhiều người đã trở thành
Phật Tử.
2. Hiểu biết luật Nghiệp Báo mang lại
niềm hy vọng cho chúng ta.
Chúng ta luôn luôn hy vọng mình sẽ khá
hơn, tốt hơn trong tương lai. Chúng ta không thỏa mãn với những gì mà chúng ta
đang có trong hiện tại. Chúng ta có thể luôn luôn cải thiện điều kiện và hoàn
cảnh chúng ta bằng cách tạo những Nghiệp Lành. Như vậy hiểu biết luật Nghiệp
Báo mang lại cho ta niềm hy vọng. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ mất niềm hy vọng.
3. Hiểu biết luật
Nghiệp Báo sẽ an ủi chúng ta những khi chúng ta gặp nghịch cảnh.
Hiện nay con người gặp rất nhiều nghịch
cảnh, và gặp nghịch cảnh nhiều lần trong cuộc sống của họ: Mất của cải, tài
sản, buôn bán lỗ lã, mất bạn bè, mất người thân yêu. Những người không hiểu
biết luật Nghiệp Báo khi gặp những nghịch cảnh như thế họ sẽ không có niềm an
ủi, họ có thể trở nên thất vọng, xuống tinh thần nhiều khi hủy cả mạng sống của
mình, nhưng những người hiểu biết luật Nghiệp Báo có thể hiểu rằng: những
nghịch cảnh này là kết quả của những Nghiệp mà họ đã làm trong quá khứ, họ sẽ
thấy chẳng có ai để trách cứ ngay cả trách cứ chính mình. Như vậy, người hiểu luật
Nghiệp Báo sẽ có được niềm an ủi lớn lao khi gặp cảnh không toại ý hay nghịch
lòng.
4. Hiểu biết luật
Nghiệp Báo giúp ta có đủ sức mạnh tinh thần, không bị chao đảo trước mọi thăng
trầm của cuộc sống.
Sống trong cuộc đời này, nhiều lúc chúng
ta phải chịu cảnh thăng trầm theo cuộc sống. Chúng ta không thể nào tránh khỏi
thành công và thất bại, được danh, mất danh, được lợi, mất lợi, được khen bị
chê, đau khổ, hạnh phúc trong cuộc sống này. Khi hiểu biết luật Nghiệp Báo thì
dầu gặp cảnh thành công hay thất bại, Hạnh phúc hay đau khổ chúng ta vẫn bình
tâm. Đứng trước mọi hoàn cảnh tốt xấu chúng ta sẽ không bị chao đảo, lay động.
Không bị giao động trước sự thành công hay thất bại là một điều rất quan trọng.
Khi thành công hạnh phúc người ta cảm thấy hân hoan thỏa mãn, nhưng khi gặp
thất bại người ta sẽ âu sầu buồn nản xuống tinh thần. Bởi vậy, cuộc sống của họ
mang nhiều nỗi khốn cùng đau khổ. Nếu chúng ta hiểu biết luật Nghiệp Báo, chúng
ta có thể đối diện với nghịch cảnh một cách bình thản không bị chúng ảnh hưởng.
5. Hiểu
biết luật Nghiệp Báo giúp chúng ta biết được tiềm năng to lớn của chính mình;
đó là chính chúng ta có thể tạo nên tương lai cho chúng ta.
Chúng ta phải nhận hậu quả của các
Nghiệp mà chúng ta đã tạo, bởi thế chúng ta có thể tạo tương lai cho chính mình
bằng cách tạo nên những Nghiệp thiện trong hiện tại. Chúng ta có đủ năng lực để
tạo tương lai cho chính chúng ta nếu chúng ta có sự hiểu biết về luật Nghiệp
Báo. Không những biết đến năng lực tiềm tàng của mình, chúng ta còn biết rằng:
chính năng lực này sẽ tạo dựng cho đời sống tương lai của chúng ta. Chúng ta có
năng lực để tạo cho đời sống tương lai của chúng ta tốt hơn đời sống hiện tại.
Như vậy, sự hiểu biết luật Nghiệp Báo đã giúp cho chúng ta hiểu rằng: chúng
sinh có năng lực tiềm tàng để tạo nên tương lai này. Chúng ta không cần tìm
kiếm năng lực bên ngoài cũng không cần tìm kiếm năng lực của các vị thánh thần
để tạo nên tương lai của chúng ta. Thực vậy, chỉ một mình chúng ta mới có thể
tạo nên tương lai cho chúng ta.
6. Hiểu biết luật Nghiệp Báo
giúp cho chúng ta hiểu biết trách nhiệm của mình.
Nhờ hiểu biết Quả của Nghiệp mà ta đang
nhận chịu có nguyên nhân là Nghiệp của chính chúng ta; chúng ta an vui hạnh
phúc hay đau khổ chính chúng ta phải chịu trách nhiệm. Do hiểu biết rằng chúng
ta phải chịu trách nhiệm về những hạnh phúc và đau khổ của chúng ta nên chúng
ta không trách cứ kẻ khác hoặc trách cứ hoàn cảnh hay điều kiện bên ngoài. Như
vậy, nhờ hiểu biết luật Nghiệp Báo mà chúng ta có trách nhiệm về chính mình. Nếu
chúng ta muốn tốt đẹp hơn trong tương lai thì chúng ta phải tạo các Nghiệp
Thiện ngay bây giờ. Tóm lại, nhờ hiểu biết luật Nghiệp Báo, chúng ta sẽ trở
thành người có trách nhiệm về chính mình.
7. Hiểu biết luật Nghiệp Báo
cũng giúp chúng ta tránh xa hành vi xâm hại kẻ khác và trở thành người có lòng
bi mẫn đối với tất cả chúng sinh. Nếu chúng ta làm hại kẻ khác thì chúng ta sẽ
nhận chịu các hậu quả đau thương do Nghiệp của chúng ta đã tạo.
Vì không muốn tự mình làm mình đau khổ
nên chúng ta sẽ không làm kẻ khác đau khổ. Như vậy, hiểu biết luật Nghiệp Báo
giúp chúng ta tránh được những hành vi xâm hại hay gây thương tích cho chúng
sinh. Tại sao hiểu biết luật Nghiệp Báo giúp chúng ta có lòng bi mẫn đối với
chúng sinh khác? Bởi vì chúng ta hiểu biết rằng: Khi có lòng bi mẫn đối với
chúng sinh khác là chúng ta đã tạo các Nghiệp Thiện Lành, và các Nghiệp Thiện
Lành này sẽ trả quả tốt đẹp trong tương lai.
8. Nhờ hiểu
biết luật Nghiệp Báo nên chúng ta có thể giúp cho xã hội này sống an vui hạnh
phúc, có tình thương, có hiểu biết, có sự sống chung hài hòa.
Còn nhiều lợi ích của sự hiểu biết luật
Nghiệp Báo nữa. Tôi mong muốn các bạn tự suy nghĩ và cho thêm vào.
CÁC LOẠI NGHIỆP
Sau khi đã tìm hiểu Nghiệp một cách tổng
quát, bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu các loại Nghiệp.
Trước tiên, Nghiệp có thể chia làm hai
loại: Thiện Nghiệp và Bất Thiện Nghiệp. Một cách phân loại khác là phân loại
theo chức năng. Tôi không thể giảng giải ở đây về chi tiết ở các loại Nghiệp
khác nhau này. Nếu các bạn muốn biết nhiều chi tiết hơn về các loại Nghiệp này
thì các bạn hãy đọc trong Vi Diệu Pháp Lược Giải (Abhidhammathasangaha).
Nghiệp được chia làm bốn
nhóm, mỗi nhóm gồm bốn Nghiệp.
Nhóm đầu tiên phân loại theo chức
năng.
Nhóm thứ hai phân loại theo cách
thức cho quả.
Nhóm thứ ba phân loại theo thời
gian trả quả.
Nhóm thứ tư phân loại theo nơi chốn
cho quả.
1. Khi phân loại theo
chức năng chúng ta có bốn loại Nghiệp.
a. Đầu tiên
là Nghiệp Tạo Tác, có nghĩa là Nghiệp tạo ra hậu quả.
b. Thứ hai
là Nghiệp Hỗ Trợ. Nghiệp Hỗ Trợ chính nó không tạo
ra quả, nhưng Nghiệp này hỗ trợ cho Nghiệp Tạo Tác.
c. Thứ ba
là Nghiệp Cản Trở. Nghiệp này, cũng vậy, chính nó không tạo ra quả,
nhưng nó làm cản trở cho Nghiệp Tạo Tác.
d. Thứ tư
là Nghiệp Hủy Diệt. Nghiệp Hủy Diệt hủy diệt quả của Nghiệp Tạo
Tác.
Như vậy tùy theo chức năng của các
Nghiệp mà Nghiệp được chia làm bốn.
Chẳng hạn Nghiệp tạo tác giúp cho một
người sinh ra làm người. Như vậy kết quả của Nghiệp Tạo Tác là một người ra
đời. Trong suốt cuộc sống của người này, y hưởng thụ sức khỏe tốt, giàu có,
sống lâu, sắc đẹp v.v... Những điều mà người này có được là hậu quả của Nghiệp
Hỗ Trợ. Nếu người này không mạnh khỏe, nếu người này nghèo, nếu người này không
sống lâu thì đó là do Nghiệp Cản Trở phát sinh. Nếu người này chết vì tai nạn
hay chết ngay tức khắc bởi một bệnh nào đó thì đó là Nghiệp Hủy Diệt đã phát
sinh. Nghiệp Tạo Tác cho kết quả vào lúc hoài thai cũng như trong suốt đời
sống. Và Nghiệp Hỗ Trợ đã hỗ trợ cho Nghiệp Tạo Tác này. Nghiệp Cản Trở đã cản
trở Nghiệp Tạo Tác và Nghiệp Hủy Diệt đã hủy diệt quả của Nghiệp Tạo Tác.
2. Nghiệp
cũng được phân chia làm bốn loại theo cách thức mà nó cho quả.
Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê
sau đây: Cực Trọng Nghiệp, Cận Tử Nghiệp, Tập Quán Nghiệp, Bảo Lưu Nghiệp.
a. Loại thứ
nhất là Cực Trọng Nghiệp. Cực Trọng Nghiệp nghĩa là Nghiệp có
năng lực mạnh mẽ, cho quả vượt trội hơn các Nghiệp khác. Cực Trọng Nghiệp Thiện
là các tầng thiền, Cực Trọng Nghiệp Bất Thiện là năm trọng tội: giết mẹ, giết
cha, giết A La Hán, làm Phật bị thương, và chia rẽ Tăng. Chấp thủ tà kiến cũng
bao gồm trong đó. Chấp thủ tà kiến có nghĩa là cho rằng: không có nhân, không
có quả v.v...
b. Loại thứ hai
là Cận Tử Nghiệp. Cận Tử Nghiệp là Nghiệp mà một người tạo ra
ngay trước khi chết. Mặc dầu người này có thể thường xuyên làm các Nghiệp Thiện
hay Nghiệp Ác trong đời sống, nhưng Nghiệp Thiện hay Ác họ tạo ra ngay trước
khi chết có năng lực mạnh mẽ hay ưu tiên để trả quả. Nghĩa là Cận Tử Nghiệp hay
Nghiệp làm ngay trước khi chết có năng lực trả quả ưu tiên hơn "Tập Quán
Nghiệp " và "Bảo Lưu Nghiệp”.
c. Loại thứ ba là Tập
Quán Nghiệp: Là Nghiệp chúng ta thường xuyên làm hằng ngày theo thói
quen hay tập quán. Có người thường tạo hai loại Nghiệp Ác và Nghiệp Thiện hằng
ngày, tạo thành thói quen, lập đi lập lại mãi không bỏ được.
d. Loại thứ tư
là Bảo Lưu Nghiệp: Là Nghiệp không nằm trong ba loại
Nghiệp trên. Nếu không có Cực Trọng Nghiệp, Cận Tử Nghiệp hoặc Tập Quán Nghiệp
thì Nghiệp Bảo Lưu có cơ hội trả quả.
3. Nghiệp phân
biệt theo thời gian trả quả:
Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê
sau đây: Nghiệp trả quả tức khắc, Nghiệp trả trong kiếp tới, Nghiệp trả sau
kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi, và Nghiệp vô hiệu
a. Nghiệp trả
tức khắc còn gọi là Hiện Nghiệp là Nghiệp trả quả ngay
trong kiếp sống này.
b. Nghiệp trả
quả tiếp theo là Nghiệp trả quả trong kiếp tới sau
khi ta lìa bỏ kiếp sống hiện tại.
c. Nghiệp trả
quả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi. Nghiệp này
còn gọi là nghiệp vô tận.
d. Nghiệp vô
hiệu thật ra không phải là một loại Nghiệp riêng biệt. Nếu Nghiệp tức
khắc không thể cho quả trong kiếp sống này thì trở thành vô hiệu. Nếu Nghiệp
cho quả trong kiếp sau không đủ điều kiện thuận lợi để trả quả thì trở thành vô
hiệu, nhưng Nghiệp vô tận thì không thể vô hiệu được; Nghiệp này tồn tại cho
đến khi chấm dứt vòng luân hồi. Chỉ tới lúc chấm dứt vòng luân hồi Nghiệp này
mới chấm dứt. Khi Nghiệp thứ nhất, thứ hai, và thứ ba này không thể cho quả
trong thời gian trả quả thì chúng trở thành vô hiệu.
Trong bốn loại Nghiệp trên thì Nghiệp vô
tận tức Nghiệp trả quả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi là
Nghiệp quan trọng nhất đối với chúng ta. Khi Nghiệp trả quả tức khắc và Nghiệp
trả qua trong kiếp tới không đủ điều kiện thì chúng trở thành vô hiệu, nhưng
Nghiệp vô tận giúp chúng sinh ở trong các cảnh khổ có cơ hội tái sinh làm người
và làm trời sẽ theo ta cho đến lúc chấm dứt vòng luân hồi. Tất cả chúng sinh có
kho chứa Nghiệp vô tận này, khi có hoàn cảnh hay cơ hội thuận tiện chúng ta sẽ
nhận quả của các Nghiệp này.
4. Nghiệp phân
biệt theo nơi chốn trả quả.
Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê
sau đây:
Ác Đạo Bất Thiện Nghiệp, Dục Giới Thiện
Nghiệp, Sắc Giới Thiện Nghiệp, Vô Sắc Giới Thiện Nghiệp.
a. Ác Đạo Bất Thiện Nghiệp: Là
những Nghiệp cho quả trong bốn ác đạo, và cũng cho quả trong dục giới
và sắc giới.
b. Dục Giới
Thiện Nghiệp: là những Nghiệp thiện cho quả ở dục giới; và cũng cho
quả ở sắc giới và vô sắc giới.
c. Sắc Giới
Thiện Nghiệp: Là những Nghiệp chỉ cho quả ở cõi sắc giới.
d. Vô Sắc Giới Thiện
Nghiệp: Là những Nghiệp chỉ cho quả ở cõi vô sắc giới.
Muốn hiểu rõ Nghiệp ở các cõi bạn phải
hiểu ba mươi mốt cõi, và phải hiểu mỗi cõi cho quả như thế nào, bạn phải tìm
kiếm học hỏi chi tiết về các quả của các Nghiệp này trong sách Vi Diệu Pháp.
Tôi chỉ cho các bạn biết một số căn bản về các loại Nghiệp, đồng thời kích thích
óc tò mò, mong muốn tìm hiểu của các bạn để các bạn thích thú trong việc tìm
hiểu, học hỏi nhiều hơn.
Nếu các bạn muốn tìm hiểu nhiều hơn các
bạn nên đọc cuốn A Comprehensive Manual of Abhidhamma (Vi Diệu Pháp Tập Yếu) do
Tỳ khưu Bodhi hiệu đính (Sư Khánh Hỷ dịch).
Bây giờ chúng ta hãy trở về với việc
phân loại các loại Nghiệp một cách thực tiễn hơn. Khi chúng ta hiểu thế nào Bất
Thiện Nghiệp, thế nào là Thiện Nghiệp thì chúng ta sẽ tránh làm các việc bất
thiện, và chúng ta sẽ thực hành các Thiện Nghiệp.
Bất Thiện Nghiệp chia làm mười loại:
Ba Nghiệp bất thiện thuộc về thân, bốn
Nghiệp bất thiện thuộc về khẩu, và ba Nghiệp bất thiện thuộc về ý.
Ba Nghiệp bất thiện thuộc về thân gồm:
Sát sinh, trộm cắp, và tà hạnh.
Sát sinh là sát hại hay chấm dứt mạng sống chúng
sinh. Sát hại chúng sinh bao gồm giết người, giết súc vật, và ngay cả
những côn trùng bé nhỏ. Những gì gọi là chúng sinh đều không được giết hại.
Người giết hại một chúng sinh nào là người ấy tạo Nghiệp ác.
Trộm cắp là lấy của ai vật gì không được
chủ nhân của vật đó bằng lòng.
Tà hạnh là thông dâm với kẻ khác không
phải là vợ hay chồng mình.
Ngoài hành vi tà dâm, tà hạnh còn có
nghĩa là làm bất cứ hành vi tà vạy nào.
Bốn Nghiệp bất thiện thuộc về khẩu gồm: Nói dối, nói lời đâm
thọc, nói lời nói dữ, nói lời vô ích.
a. Nói
dối: là nói điều không thật. Nói dối chỉ thật sự trở
thành Nghiệp bất thiện khi nói dối với chủ tâm làm hại và làm mất sự
an toàn của kẻ khác.
b. Nói
lời đâm thọc: là nói những lời nói nhằm mục đích gây ra sự chia
rẽ người khác.
c. Nói lời nói
dữ: là mắng nhiếc chửi rủa, nói những lời cộc cằn thô lỗ.
d. Nói lời vô
ích: là nói những lời vô bổ, làm mất thời giờ mà không đem đến lợi
ích tinh thần.
Ba Nghiệp bất thiện thuộc về ý gồm:
a. Tham lam: Mong
muốn chiếm đoạt của cải người khác. Đó là khi thấy vật gì thuộc quyền
sở hữu của kẻ khác mà khởi tâm ham muốn lấy làm của mình; như vậy mới gọi là
tham lam. Tham lam không phải chỉ là thích thú, dính mắc vào vật gì của kẻ khác
mà là có tà tâm mong muốn chiếm đoạt vật sở hữu của kẻ khác làm của mình.
b. Sân hận: Là
giận dữ, chán ghét, mong muốn kẻ khác bị hại, bị thương tích, bị chết.
c. Tà kiến: Là cho
rằng: không có Nghiệp, không có quả của Nghiệp v.v…
Ba hành vi này không phải thực hiện bởi
thân hay khẩu, nhưng chỉ là những ý nghĩ trong tâm. Do đó, tham, sân, và tà
kiến được gọi là ba hành vi chỉ phát khởi trong tâm.
Trên đây là mười Nghiệp bất thiện. Một
khi đã biết đây là những Nghiệp bất thiện thì nên tránh chúng.
Trong mười Bất Thiện Nghiệp trên, chúng
ta không thấy đề cập đến giới uống rượu. Chú Giải giải thích là giới uống rượu
nằm trong Bất Thiện Nghiệp thứ ba. Giới thứ ba tiếng Pāḷi là Kāmesu
micchācārā. 'Kāmesu' có nghĩa là dục lạc thế gian hay năm dục lạc
giác quan (dục lạc về sắc, dục lạc về thinh, dục lạc về hương, dục lạc về vị,
dục lạc về xúc, dục lạc về pháp) chứ không phải chỉ là dục lạc nam nữ. Như vậy
uống rượu và dùng chất say là một hành vi bất thiện thuộc về dục lạc thế gian,
đó là vị trần. Như vậy, uống rượu và dùng chất say nằm trong hành vi bất thiện
thuộc về thân, hay nằm trong giới thứ ba là tà hạnh.
Bây giờ chúng ta nói đến Nghiệp Thiện.
Có hai nhóm Thập Thiện Nghiệp thuộc Dục
giới.
Nhóm thứ nhất chỉ là mười Thiện
Nghiệp đối nghịch với mười Bất Thiện Nghiệp ta đã nói trên. Đó là:
1. Không sát
sinh,
2. Không trộm
cắp,
3. Không tà hạnh,
4. Không nói dối,
5. Không nói lời
đâm thọc,
6. Không nói lời
nói dữ,
7. Không nói lời
vô ích,
8. Không tham (không có tà tâm mong
muốn chiếm đoạt vật sở hữu của kẻ khác làm của mình),
9. Không sân (có
từ tâm),
10. Không tà kiến (có
chánh kiến), nghĩa
là biết nhân, biết quả, biết nhân quả và biết mọi việc trên thế gian đều
tùy thuộc vào một số các việc khác.
Mười Thiện Nghiệp Dục Giới này chỉ là
mười Nghiệp đối nghịch với mười Bất Thiện Nghiệp mà thôi.
Nhóm mười Thiện Nghiệp thứ hai là:
1. Bố thí: Giúp đỡ người nghèo khó
hay dâng cúng thực phẩm và vật dụng đến chư tăng.
2. Trì giới: Giữ giới
luật trong sạch: không sát sinh, trộm cắp, tà hạnh...
3. Tham thiền: Luyện tâm, Phát triển
tinh thần, hành Thiền Định và Thiền Minh Sát…
4. Cung kính: Tôn kính người lớn
tuổi, tôn kính người đáng tôn kính, nhường chỗ cho người đáng nhường.
5. Phục vụ: giúp đỡ người khác, làm
các công việc cho cộng đồng, làm công quả cho chùa, giúp người khác làm
việc thiện.
6. Hồi hướng công
đức: Trước
hết, đi làm phước rồi hồi hướng hay chia phước lành đến mọi người. Chia
phước là giúp mọi người có cơ hội được hưởng phước báu qua hành vi phước thiện
của mình. Chia phước không phải là tặng hoặc bố thí phước báu của mình cho
người khác và mình không còn phước báu nữa. Chia phước báu là hành vi phước
thiện tạo thành Nghiệp tốt. Chia phước càng khiến cho phước báu mình được gia
tăng.
7. Tùy hỉ: Hoan hỉ với phước
báu của người khác, nghĩa là khi được người khác chia phước báu cho ta thì
ta nói: Sādhu, sādhu, sādhu (lành thay, lành thay, lành thay). Có nghĩa là ta
hoan hỉ, hạnh phúc với phước báu người khác đã tạo. Khi bạn hoan hỉ với phước
báu của người khác thì chính bạn cũng được phước báu. Đó là vì khi bạn hoan hỉ,
vui mừng thì sự hoan hỉ, vui mừng này đã lấy phước báu của người khác làm đối
tượng. Đây là một thiện tâm. Chú Giải nói rằng: Dù cho người làm việc phước
thiện có chia phước cho bạn hay không, thì bạn cũng có thể hoan hỉ với việc
phước thiện của họ đã làm. Như vậy, nếu được người khác chia phước thì bạn hãy
nói: "Sādhu, sādhu, sādhu" hay “lành thay, lành thay, lành thay”. Nếu
họ không chia phước báu cho bạn, nhưng nếu bạn thấy hay bạn nghe rằng: người đó
đã làm việc phước thiện thì bạn cũng có thể thực hành việc hoan hỉ phước báu
của người khác bằng cách vui mừng hoan hỉ với phước báu này.
8. Nghe pháp: Là nghe giáo pháp của Đức
Phật. Việc học tập các loại nghệ thuật như: điêu khắc, vẽ tranh hoặc
các học thuật chuyên môn để mở mang kiến thức mà không làm hại hay gây thương
tổn cho ai cũng bao gồm trong phần nghe pháp.
9. Thuyết pháp: Giảng dạy giáo pháp.
Phần này cũng bao gồm cả việc giảng dạy Phật pháp và một vài loại
ngành nghề, học thuật không xâm hại hay tổn thương đến kẻ khác và không chống
trái những lời dạy của Đức Phật.
10. Có chánh kiến: Có quan kiến đúng
đắn, nghĩa là có kiến thức đúng đắn về nhân quả v.v... Quan kiến
đúng đắn hay Chánh Kiến thật ra chỉ là ngược lại với tà kiến. Có quan kiến đúng
đắn rất quan trọng, nếu có quan kiến sai lầm thì mọi việc làm của ta đều không
phải là Thiện Nghiệp. Chúng ta phải có quan kiến đúng đắn hay Chánh Kiến về
Nhân, về Quả, và những gì liên quan đến Nhân Quả.
Ba Thiện Nghiệp đầu tiên: bố thí, trì
giới, và tham thiền là ba bước đầu tiên mà người Phật Tử phải thực hành.
Bố thí: Trong mười Ba La Mật hay mười
phẩm hạnh cao thượng mà một vị Bồ Tát phải thực hành trọn vẹn thì bố
thí là pháp đầu tiên. Bố thí (dāna) ở đây có nghĩa là cho ra, giúp đỡ hay cúng
dường v.v... Bố thí (dāna) rất quan trọng vì bố thí giúp cho tâm của chúng ta
êm dịu, và mềm dẽo. Bố thí còn tạo cơ hội cho chúng ta loại trừ Tham Ái, dính
mắc. Mỗi khi chúng ta cho ra vật gì, không những ta cho ra vật đó mà còn dứt
trừ tâm Tham Ái, dính mắc vào vật đó nữa. Như vậy, khi thực hành hạnh bố thí,
chúng ta cũng đồng thời thực hành hạnh dứt bỏ, Tham Ái dính mắc vào vật ta cho
ra.
Trì giới: còn được gọi là giữ phẩm hạnh
đạo đức. Giữ giới là kiểm soát thân khẩu. Khi giữ giới là ta giữ
phẩm hạnh trong sạch, ta không để cho thân và khẩu ô nhiễm bởi hành động
và lời nói bất thiện. Là cư sĩ, bạn có thể giữ năm giới hay tám giới như các
bạn đang thực hành trong khóa thiền này, nếu bạn muốn thực hành giới luật nhiều
hơn bạn có thể giữ mười giới.
Tham thiền: giúp cho tâm thanh tịnh, an lạc
hay đưa đến những tiến bộ tinh thần cao, khai mở trí tuệ. Bạn có thể
hành Thiền Định hay Thiền Minh Sát. Do hành Thiền Định bạn có thể đạt được định
tâm cao. Nếu bạn thành công trong việc thực hành một trong bốn mươi đề mục
Thiền Định bạn có thể thực hành thêm để có thần thông. Qua hành Thiền Minh Sát
bạn sẽ đạt đến chỗ dứt sạch mọi ô nhiễm trong tâm hay đạt cứu cánh Niết Bàn.
Cung kính và phục vụ: Đó là Thiện Nghiệp
thứ tư và thứ năm: Cung kính những người đáng cung kính, và phục vụ giúp
đỡ mọi người; hai điều này có thể bao gồm trong Thiện Nghiệp thứ hai, giới luật
trong sạch, bởi vì khi bạn thực hành giới bạn kiểm soát hành động và lời nói.
Cung kính và phục vụ là một biểu hiện của sự kiểm soát thân và khẩu, do đó được
bao gồm trong giới luật, Thiện Nghiệp thứ hai.
Hồi hướng chia phước bao gồm trong Thiện
Nghiệp thứ nhất, bố thí. Tùy hỉ hay hoan hỉ với phước báu của
người khác cũng bao gồm trong bố thí bởi vì liên hệ đến sự bố thí, không phải
mình cho ra, nhưng người khác cho ra.
Nghe pháp, thuyết pháp, và có quan kiến
đúng đắn đều
nằm trong Thiện Nghiệp thứ ba là tham thiền. Nghe pháp là một loại phát
triển tinh thần. Thuyết pháp cũng thuộc phát triển tinh thần bởi vì bạn đang
phát triển tâm mình. Có quan kiến đúng đắn hay có Chánh Kiến cũng thuộc về phát
triển tinh thần.
Như vậy, chúng ta có thể thu gọn mười
Thiện Nghiệp còn lại ba Thiện Nghiệp: Bố thí, trì giới, tham thiền. Yếu
tố sáu và bảy vào yếu tố một: Bố thí; bốn và năm vào yếu tố thứ hai: Trì
giới; tám, chín và mười vào yếu tố ba: Tham thiền.
(1) Bố thí: bao
gồm hồi hướng (6), tùy hỉ (7).
(2) Trì
giới bao gồm cung kính (4), phục vụ (5).
(3) Tham thiền bao gồm nghe
pháp (8) thuyết pháp (9), Chánh Kiến (10).
Bây giờ chúng ta đã hiểu Bất Thiện
Nghiệp và Thiện Nghiệp, chúng ta có thể theo lời dạy của Đức Phật trong kinh
Pháp Cú:
"Không làm điều ác nào,
Làm các hạnh lành,
Thanh lọc tâm ý,
Đó là lời dạy của chư Phật.
Câu đầu tiên trong bài kệ Pháp Cú này là
Sabbapāpassa akaraṇaṁ (Không làm điều ác nào). Chữ sabbapāpassa có hai phần:
‘Sabba’ có nghĩa là tất cả, và ‘pāpa’ có nghĩa là điều ác, như vậy
"sabbapāpassa" có nghĩa là tất cả điều ác. Nhưng khi nói “Không làm
tất cả các điều ác”, người ta có thể tranh biện: Nếu bạn nói "không làm
tất cả các điều ác", như vậy có nghĩa là "có thể làm ít điều ác cũng
được". Bởi thế, ở đây ta phải dịch là "không làm điều ác nào"
tức là không làm điều bất thiện, không tạo các ác Nghiệp. Sau đó là "hoàn
thành những việc thiện" có nghĩa là vun bồi Thiện Nghiệp hay làm những
việc thiện; tiếp theo là thanh lọc tâm ý. Tâm chúng ta có nhiều phiền não hay ô
nhiễm, bởi vậy Đức Phật dạy chúng ta hãy thanh lọc tâm. Câu Pháp Cú trên Đức
Phật dạy chúng ta tránh xa điều ác, vun bồi hạnh lành, và thanh lọc tâm ý.
Chú Giải Kinh Pháp Cú giải thích câu đầu
của bài kệ này, sabbapāpassa akaraṇaṁ là không làm những hành vi bất thiện,
điều này dễ hiểu. Câu thứ hai, kusalassa upasampadā là làm khởi sinh các hành
vi thiện lành, và phát triển những gì cần phải phát triển. Như vậy, ở đây câu:
"vun bồi thiện tâm" hay "hoàn thành những việc thiện" là
làm phát sinh Thiện Nghiệp, và tiếp tục, tiếp tục làm phát sinh Thiện Nghiệp,
nghĩa là liên tục tạo Thiện Nghiệp. Câu này có nghĩa không phải chỉ làm việc
thiện một lần mà phải tiếp tục làm việc thiện nhiều lần cho đến khi Thiện
Nghiệp phát triển. Chú Giải cũng nói rằng: phải làm việc thiện cho đến khi đạt
A La Hán đạo (Arahatta Magga) nghĩa là cho đến khi Giác Ngộ. Tôi nghĩ rằng: Chú
Giải liên kết điều này với cuộc đời của Đức Phật. Là một hoàng tử, Đức Phật từ
bỏ đời sống thế tục, xuất gia tu hành. Và trong sáu năm Ngài sai lầm thực hành
khổ hạnh trong rừng, cuối cùng Ngài bỏ lối tu khổ hạnh, thực hành trung đạo và
thành chánh quả. Từ lúc xuất gia cho đến khi Giác Ngộ Ngài đã thực hành và phát
triển Thiện Nghiệp. Thứ ba sacittapariyodapanaṁ (Thanh lọc tâm ý), có nghĩa là
làm cho tâm trong sạch, thoát khỏi năm chướng ngại. Thanh lọc tâm khỏi năm
chướng ngại (phiền não) là một việc làm quan trọng bởi vì bao lâu vẫn còn
chướng ngại trong tâm thì vẫn chưa thể hi vọng Giác Ngộ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét