5 THƯỢNG HẠ PHẦN KIẾT SỬ
LỜI PHẬT DẠY:
1/ Này các Tỳ
Kheo, có năm pháp làm suy yếu sự tu tập. Thế nào là năm? Sát sanh, trộm cắp,
dâm dục, nói láo, uống rượu. Này các Tỳ Kheo để đoạn tận năm pháp này. Bốn Niệm
Xứ cần phải tu tập. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (I) (63))
2/ Này các Tỳ
Kheo có năm triền cái. Thế nào là năm? Dục tham triền cái, sân triền cái, hôn
trầm thùy miên triền cái, trạo hối triền cái, nghi triền cái. Này các Tỳ Kheo,
để đoạn tận năm triền cái này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập. (Tăng Chi Bộ Kinh,
Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (II) (64))
3/ Này các Tỳ
Kheo có năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, khả lạc,
khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Thinh do tai…Hương do mũi… Vị do lưỡi...
Xúc do thân... Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm dục trưởng dưỡng này. Bốn Niệm
Xứ cần phải tu tập. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (III) (65))
4/ Này các Tỳ
Kheo có năm thủ uẩn. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn,
hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm thủ uẩn này. Bốn
Niệm Xứ cần phải tu tập. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh
(IV) (66))
5/ Này các Tỳ
Kheo có năm hạ phần kiết sử.Thế nào là năm? Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục
tham, sân. Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm hạ phần kiết sử này. Bốn Niệm Xứ cần
phải tu tập. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (V) (67))
6/ Này các Tỳ
Kheo có năm sanh thú. Thế nào là năm? Ðịa ngục, loài bàng sanh, ngạ quỷ, Người,
Trời. Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm sanh thú này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập. (Tăng Chi Bộ
Kinh, Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (VI) (69))
7/ Này các Tỳ
Kheo có năm xan tham. Thế nào là năm? Xan tham trụ xứ, xan tham gia đình, xan
tham lợi dưỡng, xan tham dung sắc, xan tham pháp. Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận
năm xan tham này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập. (Tăng Chi Bộ Kinh,
Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (VII) (69))
8/ Này các Tỳ
Kheo có năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm? Sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử,
vô minh. Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm thượng phần kiết sử này. Bốn Niệm Xứ
cần phải tu tập. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (VIII) (70))
9/ Này các Tỳ
Kheo có năm tâm hoang vu. Thế nào là năm? Này các Tỳ Kheo, ở đây vị Tỳ kheo
nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư. Này các Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo nào nghi ngờ, do dự,không quyết đoán, không tịnh tín đối với bậc
Ðạo Sư, Tỳ Kheo ấy không hướng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn.
Khi tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn, như vậy
gọi là tâm hoang vu thứ nhất. Này các vị Tỳ Kheo, lại nữa, vị Tỳ Kheo nghi ngờ
đối với pháp… (như trên…) đối với Tăng… (như trên… ) đối với Học Pháp… (như
trên… ) tức giận đối với các vị đồng Phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động, trở
thành hoang vu. Này Tỳ Kheo, khi một vị Tỳ Kheo phẫn nộ đối với các vị đồng Phạm
hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động trở thành hoang vu, Tỳ Kheo ấy không hướng về
nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Như vậy gọi là tâm hoang vu thứ năm.
Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm tâm hoang vu này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập’’. (Tăng Chi Bộ Kinh
tập 4 trang 225 – 230) (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, Phẩm Niệm Xứ,
kinh (IX) (71))
CHÚ
GIẢI:
DIỆT
NĂM ÐIỀU ÁC
Trên đường tu tập có năm pháp làm cho
chúng ta tu tập rất khó khăn, không thể tu tập được. Như các bạn đã biết muốn
tu tập để được giải thoát thì phải ly dục và ác pháp, cho nên năm pháp này pháp
cản đường cản lối, khiến cho chúng ta không thực hiện được. Các bạn hãy lắng
nghe đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo, có năm pháp làm suy yếu sự tu tập. Thế nào là năm? Sát sanh, trộm cắp,
dâm dục, nói láo, uống rượu”. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, Phẩm Niệm Xứ, kinh (I) (63))
Năm pháp làm suy yếu sự tu tập là năm
giới của người Sa Di. Như vậy các bạn thấy rất rõ, nếu giới luật không nghiêm
chỉnh thì các bạn không bao giờ tu tập ly dục ly ác pháp được. Năm pháp này gồm
có như sau:
1- Giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng
sanh, đó là một pháp cực ác.
2- Tham lam trộm cắp, cướp của, lấy của
không cho, đó là một pháp cực ác.
3- Dâm dục là một pháp dục đệ nhất.
4- Nói vọng ngữ là một pháp cực ác
không có pháp ác nào không làm.
5- Uống rượu là một pháp cực ác, nó hại
người uống rượu không còn trí thông minh, từ đó không có một pháp ác nào mà người
uống rượu không làm.
Năm giới này muốn được giữ gìn trọn vẹn
nghiêm chỉnh không hề vi phạm thì chúng ta phải tu tập Tứ Niệm Xứ trong giai đoạn
đầu, tức là tu tập Tứ Chánh Cần gồm bốn định: Ðịnh Niệm Hơi Thở, Ðịnh Vô Lậu, Ðịnh
Sáng Suốt và Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nên kinh dạy:
“Này các Tỳ
Kheo để đoạn tận năm pháp này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”.
Như vậy đức Phật dạy muốn giữ gìn năm
giới nghiêm chỉnh từ thân, miệng, ý của mình thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ như
trên đã nói.
Ðọc bài kinh này chúng ta mới thấy
kinh Tứ Niệm Xứ rất quan trọng cho việc giữ gìn giới luật. Từ lâu người ta nghĩ
rằng, chỉ học giới rồi giữ giới, chứ đâu ngờ muốn giữ giới luật nghiêm chỉnh
thì phải tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Ðúng là pháp môn Tứ Niệm Xứ tuyệt vời.
NĂM TRIỀN CÁI
Năm triền cái là năm cái màn ngăn che
làm cho các bạn không thấy được tâm mình tham, sân, si, mạn, nghi. Vì thế, khi
đứng trước ác pháp các bạn mới thấy tâm tham, sân, si… hiện rõ. Vậy chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo có năm triền cái. Thế nào là năm?
1- Dục tham
triền cái;
2- Sân triền
cái;
3- Hôn trầm,
thùy miên triền cái;
4- Trạo hối
triền cái;
5- Nghi triền
cái”.
(Tăng Chi Bộ Kinh,
Chương chín pháp, Phẩm Niệm Xứ, kinh (II) (64))
® Dục tham triền cái: là cái màn ngăn
che lòng tham muốn, khiến cho ta không thấy, nhưng nó vẫn còn nguyên.
® Sân triền cái: là cái màn ngăn che
lòng sân giận, khiến cho ta không thấy, nhưng lòng sân giận vẫn còn y nguyên.
® Hôn trầm, thùy miên triền cái: là
cái màn ngăn che hôn trầm, thùy miên khiến cho ta không thấy, nhưng hôn trầm,
thuỳ miên vẫn còn y nguyên.
® Trạo hối triền cái: là cái màn ngăn
che trạo hối khiến cho ta không thấy, nhưng trạo hối vẫn còn y nguyên.
® Nghi triền cái: là cái màn ngăn che
nghi khiến cho ta không thấy, nhưng nghi vẫn còn y nguyên.
Năm triền cái này là năm pháp ngăn
che làm cho tâm chúng ta không thanh tịnh, tức là không ly dục ly ác pháp hoàn
toàn. Do đó, nội tâm ta không đủ nội lực Tứ Như Ý Túc để thực hiện Bốn Thiền và
Tam Minh.
Muốn đoạn tận năm triền cái này thì
chúng ta hãy tu tập Tứ Niệm Xứ, chỉ có pháp môn Tứ Niệm Xứ mới đoạn tận năm triền
cái.
Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo, để đoạn tận năm triền cái này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”.
NĂM
DỤC TRƯỞNG DƯỠNG
Muốn tu tập năm dục trưởng dưỡng thì
phải hiểu rõ năm dục trưởng dưỡng. Vậy năm dục trưởng dưỡng là gì? Năm dục trưởng
dưỡng là năm thứ nuôi lớn lòng dục. Năm thứ nuôi lớn lòng dục gồm có:
1- Mắt thấy sắc sinh ra dục (ưa
thích), càng thấy sinh ra dục càng nhiều nên gọi là trưởng dưỡng.
2- Tai nghe âm thanh sinh ra dục (ưa
thích), càng nghe sinh ra dục càng nhiều nên gọi là trưởng dưỡng.
3- Mũi ngửi mùi hương sinh ra dục (ưa
thích), càng ngửi mùi hương sinh ra dục càng nhiều nên gọi là trưởng dưỡng.
4- Lưỡi nếm mùi vị sinh ra dục (ưa
thích), càng nếm mùi vị sinh ra dục càng nhiều nên gọi là trưởng dưỡng.
5- Thân xúc chạm êm ái sinh ra dục
(ưa thích), càng xúc chạm êm ái sinh ra dục càng nhiều nên gọi là trưởng dưỡng.
Người ở đời không biết nên lúc nào
cũng trưởng dưỡng năm thứ dục này. Vì thế, sự khổ đau càng chồng chất cho đến
khi chết tiếp tục tái sanh càng lớn mạnh hơn nhiều, do đó đời nào cũng khổ và
khổ mãi không bao giờ dứt.
Năm dục trưởng dưỡng này chỉ có pháp
môn Tứ Niệm Xứ thì mới đoạn diệt, ngoài Tứ Niệm Xứ thì không có pháp diệt nó được.
Vậy, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo có năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, sinh ra
khả lạc, khả hỷ, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Thinh do tai… Hương do mũi… Vị
do lưỡi… Xúc do thân… Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm dục trưởng dưỡng này. Bốn
Niệm Xứ cần phải tu tập”. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, Phẩm Niệm Xứ, kinh
(III) (65))
Ðức Phật đã xác định cho các bạn biết
pháp nào diệt năm dục trưởng dưỡng rõ ràng. Khi biết rõ như vậy các bạn sẽ
không lầm lạc pháp môn giả hiệu. Phải không các bạn?
NĂM
THỦ UẨN
Mỗi thân người gồm có đầy đủ năm thủ
uẩn. Vậy năm thủ uẩn là gì? Năm thủ uẩn là năm duyên hợp lại tạo thành thân người:
1-
Sắc thủ uẩn: là
phần hữu hình của thân ngũ uẩn, nó gồm có bốn đại: đất, nước, gió, lửa. Thân tứ
đại sử dụng sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và sáu thức: nhãn thức, nhĩ
thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức tiếp xúc với sáu trần: sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp.
2-
Thọ uẩn: là phần vô hình của
thân ngũ uẩn. Thọ uẩn có ba thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Có ba
thức sử dụng thọ này: sắc thức, tưởng thức, thức thức. Thọ là cảm giác nhận ra:
an lạc, mừng vui, đau khổ, phiền não, tức giận v.v…
3-
Tưởng uẩn: là phần vô hình của
thân ngũ uẩn. Tưởng uẩn hoạt động mà người đời và tất cả tôn giáo đều hiểu lầm
lạc, cho sự hoạt động của tưởng là thế giới siêu hình. Chiêm bao cũng là một dạng
tưởng uẩn hoạt động, nhưng nó thuộc về ý thức tưởng.
4- Hành
uẩn: là phần vô hình của
thân ngũ uẩn. Hành uẩn là những hành động của sắc uẩn, tưởng uẩn, thức uẩn. Nếu
thân ngũ uẩn không có hành uẩn là không thành thân ngũ uẩn là thành một vật bất
động vô tri, vô giác.
5- Thức
uẩn: là phần vô hình của
thân ngũ uẩn. Thức uẩn là phần hoạt động siêu không gian và thời gian. Nó thuộc
về trí tuệ Tam Minh, Lục Thông của những người đã tu chứng quả A La Hán, còn
người tu chưa chứng quả A La Hán thì không bao giờ sử dụng được nó. Thức uẩn đối
với mọi người bình thường thì nó đang bất động không hề hoạt động một chút nào
cả. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Này các TỳKheo
có năm thủ uẩn. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành
thủ uẩn, thức thủ uẩn”.
Trên đường tu tập theo Phật giáo thì
năm thủ uẩn này cần phải đoạn diệt. Muốn đoạn diệt được năm thủ uẩn này thì chỉ
có pháp môn Tứ Niệm Xứ. Vì thế đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo, để đoạn tận năm thủ uẩn này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”. (Tăng Chi Bộ Kinh,
Chương chín pháp, Phẩm Niệm Xứ, kinh (IV) (66))
NĂM
HẠ PHẦN KIẾT SỬ
Năm hạ phần kiết sử là năm sợi dây
trói buộc của phần thấp. Vậy năm sợi dây trói buộc của phần thấp nghĩa là gì?
Năm sợi dây trói buộc của phần thấp nghĩa là năm sợi dây trói buộc của dục giới.
Năm sợi dây trói buộc của dục giới gồm có:
1- Tham
kiết sử: Phiền não của tham dục
tức là do lòng tham muốn không đạt được sinh phiền não.
2- Sân
kiết sử: Phiền não của giận dữ
tức là giận dữ do lòng tham muốn không đạt được sinh ra phiền não.
3- Thân
kiến kiết sử: Phiền
não của ngã kiến tức là do chấp ngã mà sinh ra phiền não.
4- Giới
cấm thủ kiết sử: Phiền
não do giới cấm phi lý của ngoại đạo (ngồi thiền chân đau tê không xả ra), tu đứng,
tu ngồi, tu hạnh con bò, tu hạnh con chó, v.v…
5- Nghi
kiết sử: Phiền não do lòng nghi
hoặc tức là thấy ai nói hay làm một hành động nào đó rồi cho họ nói xấu mình.
Muốn diệt trừ năm hạ phần kiết sử này
thì chỉ có tu hành theo pháp môn Tứ Niệm Xứ. Vậy chúng ta hãy nghe đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo có năm hạ phần kiết sử. Thế nào là năm? Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục
tham, sân. Này các TỳKheo, để đoạn tận năm hạ phần kiết sử này. Bốn Niệm Xứ cần
phải tu tập”. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, Phẩm Niệm Xứ, kinh (V) (67))
NĂM
TRẠNG THÁI CỦA TÂM
Năm trạng thái của tâm để xác định
người ác người thiện gồm có:
1- Ðịa
ngục: Một trạng thái đau khổ
như đang cơn bạo bệnh.
2- Loài
bàng sanh: Một trạng thái giống
như loài bàng sanh.
3- Ngạ
quỉ: Một trạng thái đau khổ
đang bị đói.
4- Người: Một trạng thái giữ gìn năm giới
được trọn vẹn.
5- Trời: Một trạng thái giữ gìn 10 điều
thiện được trọn vẹn.
Muốn tu tập để thoát ra những trạng
thái đau khổ và chấm dứt tái sanh luân hồi thì chỉ có tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo có năm sanh thú. Thế nào là năm? Ðịa ngục, loài bàng sanh, ngạ quỷ, người,
Trời. Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm sanh thú này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập’’. (Tăng Chi Bộ Kinh,
Chương chín pháp, Phẩm Niệm Xứ, kinh (VI) (69))
NĂM
XAN THAM
Ðời người có một tính xấu xa nhất, đó
là tính keo kiệt. Tính keo kiệt gồm có năm:
1- Xan
tham trụ xứ: Tâm
dính mắc nơi mình ở, không rời bỏ được, nếu ai xâm phạm đến đất đai, nhà cửa chỗ
ở là các bạn sẽ ăn thua đủ với họ. Tình trạng kiện thưa đất đai. Ở trên đất người
khác mà muốn chiếm luôn, tranh chấp từng tấc đất theo ranh giới, tính keo kiệt
về đất đai nơi mình ở. Ðó là xan tham trụ xứ.
2- Xan
tham gia đình: Tâm
dính mắc gia đình, không rời bỏ được gia đình, nếu có sự rời bỏ gia đình là buồn
khổ và đau đớn. Có nhiều người muốn đi tu vì biết đời là khổ, nhưng không rời bỏ
gia đình được, luôn luôn viện cớ bằng cách này, bằng cách khác, đó cũng chính
là xan tham gia đình. Người quyết tâm đi tu rời bỏ gia đình là người không xan
tham gia đình, là người đầy đủ nghị lực, kiên cường và có tính cương quyết, nên
mới xả được tâm xan tham.
3- Xan
tham lợi dưỡng: Tính
ưa ăn ngon mặc đẹp, muốn cho mình sống đầy đủ phủ phê, sung sướng bằng của đàn
na thí chủ không phải bỏ sức lao động.
4- Xan
tham dung sắc: Tích
ưa thích sắc đẹp. Ưa thích sắc đẹp là ưa thích sắc dục, ưa thích tính sắc dục
là thân tâm cấu uế, bất tịnh, thân tâm không thanh tịnh.
5- Xan
tham pháp: Thấy mọi vật gì cũng
sinh tâm ham thích: nhà, cửa, ruộng vườn, đất đai, thú vật, vàng bạc, của báu,
xe cộ, đồ đạc, v.v…
Làm một con người mà có đủ năm thứ
xan tham này thì cuộc đời rất là đau khổ. Cho nên, muốn thoát khổ không gì hơn
là phải đoạn trừ năm xan tham này. Muốn đoạn trừ năm xan tham này thì phải tu tập
Tứ Niệm Xứ, ngoài Tứ Niệm Xứ ra thì không có pháp nào diệt trừ được. Chúng ta
hãy lắng đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo có năm xan tham. Thế nào là năm? Xan tham trụ xứ, xan tham gia đình, xan
tham lợi dưỡng, xan tham dung sắc, xan tham pháp.
Này các Tỳ
Kheo, để đoạn tận năm xan tham này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”. (Tăng Chi Bộ Kinh,
Chương chín pháp, Phẩm Niệm Xứ, kinh (VII) (69))
NĂM
THƯỢNG PHẦN KIẾT SỬ
Trong cuộc đời tu hành để tìm cầu sự
giải thoát thì năm sợi dây trói buộc phải được bứt sạch. Trước khi muốn bứt sạch
năm sợi dây trói buộc này thì phải hiểu nghĩa. Vậy nghĩa của nó là gì? Năm Thượng
Phần Kiết Sử nghĩa là năm sợi dây trói buộc về trạng thái có hình sắc (sắc giới)
và trạng thái không hình sắc (vô sắc giới). Năm Thượng Phần Kiết Sử gồm có:
1- Sắc
ái: Những vật chất có hình
ảnh làm cho chúng ta ưa thích như nhà lầu xe hơi, chùa to Phật lớn, tivi, tủ lạnh,
vi tính, v.v…
2- Vô
sắc ái: Những vật không hình sắc
như các cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ thường sinh ra ưa thích
và không ưa thích; như các hành: Thân hành, khẩu hành, ý hành làm cho chúng ta
ưa thích.
3- Mạn: Nói đủ là ngã mạn. Ngã mạn là
tính kiêu căng tự đắc xem trời đất không ai bằng mình.
4- Trạo
cử: Những phiền não khiến
tâm bất an, đó là về tâm. Còn trạo cử về thân thì thân đau nhức chỗ này, chỗ
kia hoặc mỏi mệt bất an, lăn qua lộn lại, thân nhút nhít, động đậy không lúc
nào yên.
5- Vô
minh: Trạng thái hôn trầm,
thuỳ miên, vô ký khiến cho thân lười biếng, muốn đi nằm, đi ngủ, nói chung là
trạng thái tham ăn tham ngủ, không tinh tấn siêng năng tu tập.
Năm Thượng Phần Kiết Sử trên đây muốn
đoạn diệt nó thì duy nhất phải có pháp môn Tứ Niệm Xứ, ngoài pháp môn Tứ Niệm Xứ
thì không có pháp nào diệt nó được. Các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo, có năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm? Sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo
cử, vô minh. Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm thượng phần kiết sử này. Bốn Niệm
Xứ cần phải tu tập”. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, Phẩm Niệm Xứ, kinh (VIII) (70))
NĂM
TÂM HOANG VU
Có năm tâm hoang vu. Vậy năm tâm
hoang vu nghĩa là gì? Tâm hoang vu tức là tâm rừng rú. Tại sao con người lại có
tâm rừng rú? Tâm rừng rú là tâm chưa được huấn luyện. Tâm chưa được huấn luyện
là tâm giống như con dã thú. Tâm chưa được huấn luyện là tâm chưa được tu tập Tứ
Niệm Xứ. Tâm rừng rú chỉ có năm:
Tâm hoang vu thứ nhất, chúng ta hãy lắng
đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo có năm tâm hoang vu. Thế nào là năm? Này các Tỳ Kheo, ở đây vị Tỳ kheo
nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư. Này các Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo nào nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với bậc
Ðạo Sư, Tỳ Kheo ấy không hướng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn.
Khi tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn, như vậy
gọi là tâm hoang vu thứ nhất”. (Tăng Chi Bộ Kinh tập 4 trang 225 – 230). (Tăng Chi Bộ
Kinh, Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (IX) (71)).
Các bạn có nghe lời dạy này của đức
Phật không? Nếu các bạn về tu viện Chơn Như mà các bạn không tin Thầy, không
tin lời dạy của Thầy, không tu tập đúng như lời dạy của Thầy, sống phạm giới,
phá giới, đó là tâm rừng rú của các bạn. Tâm đó là tâm không thể huấn luyện được,
tâm đó là tâm bỏ đi, tâm đó là tâm không dùng được.
Tâm hoang vu thứ hai, các bạn hãy lắng
đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo, lại nữa, vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với Pháp. Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nào
nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với Pháp, Tỳ Kheo ấy
không hướng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Khi tâm của vị ấy không
hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn, như vậy gọi là tâm hoang vu thứ
hai”. (Tăng Chi Bộ Kinh tập 4 trang 225 – 230). (Tăng Chi Bộ
Kinh, Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (IX) (71)).
Ðối với pháp tu các bạn phải nghiên cứu
cho thật kỹ, nếu pháp nào đúng là pháp của Phật dạy thì các bạn hãy đặt trọn
lòng tin và thực hiện cho bằng được, phải giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh,
phải tu tập cho đúng lời dạy của Thầy. Còn ngược lại là tâm rừng rú của các bạn,
các bạn không nên dùng những loại tâm đó mà đi theo con đường chánh pháp của đức
Phật được. Vì pháp của Phật là đạo đức nhân bản – nhân quả làm người. Nếu các bạn
không tin thì các bạn sẽ sống vô đạo đức, sẽ làm khổ mình khổ người và khổ tất
cả chúng sanh. Pháp của Phật dễ nhận ra lắm các bạn ạ! Vì không tu thì thôi mà
hễ có tu là có giải thoát ngay liền.
Tâm hoang vu thứ ba, các bạn hãy lắng
đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo, lại nữa, vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với Tăng, Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nào
nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với Tăng, Tỳ Kheo ấy
không hướng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Khi tâm của vị ấy
không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn, như vậy gọi là tâm hoang
vu thứ ba” (Tăng Chi Bộ Kinh tập 4 trang 225 – 230). (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương
chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (IX) (71)).
Tăng là những người còn đang sống hiện
tiền. Họ sống như Phật, ăn như Phật, làm như Phật, đi như Phật, v.v… Cho nên,
Tăng là gương hạnh sống động nhất cho cuộc đời tu hành của các bạn. Họ là giới
luật sống mà hằng ngày các bạn gặp. Họ là những cuốn tự điển sống để các bạn
tra cứu các pháp hành không bao giờ sai, vậy mà các bạn nghi ngờ là nghi ngờ
làm sao?
Tâm hoang vu thứ tư, các bạn hãy lắng
đức Phật dạy:
“Này các Tỳ
Kheo, lại nữa, vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với Học Pháp. Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
nào nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với Học Pháp, Tỳ Kheo
ấy không hướng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Khi tâm của vị ấy
không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn, như vậy gọi là tâm hoang
vu thứ tư”. (Tăng Chi Bộ Kinh tập 4 trang 225 – 230). (Tăng Chi Bộ Kinh,
Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ, kinh (IX) (71)).
Học Pháp tức là học và tu tập giới luật
và 37 phẩm trợ đạo, nếu các bạn học và tu tập Học Pháp mà không tinh cần thì
làm sao các bạn hiểu biết cho rõ ràng và làm sao cho thuần thục và nghiêm trì,
nếu các bạn học và tu tập một cách lơ là, cho có hình thức thì đó là tâm rừng
rú của các bạn? Tâm đó đối với Học Pháp chẳng có lợi ích gì cả. Muốn xả bỏ tâm
rừng rú đó thì các bạn phải tinh tấn siêng năng tu tập Tứ niệm Xứ như đã dạy ở
trên.
Tâm hoang vu thứ năm, các bạn hãy lắng
đức Phật dạy:
“Này Tỳ Kheo,
lại nữa, khi một vị Tỳ Kheo phẫn nộ đối với các vị đồng Phạm hạnh, không hoan hỷ,
tâm dao động trở thành hoang vu, Tỳ Kheo ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái,
kiên trì và tinh tấn. Như vậy gọi là tâm hoang vu thứ năm. Này các Tỳ Kheo, để
đoạn tận năm tâm hoang vu này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”. (Tăng Chi Bộ Kinh
tập 4 trang 225 – 230). (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương chín pháp, phẩm Niệm Xứ,
kinh (IX) (71)).
Một vị Tăng mà còn phẫn nộ thì đó là
tâm rừng rú các bạn cần phải dẹp bỏ, cần phải xa lìa, cần phải đoạn trừ muốn được
vậy thì các bạn phải y theo lời Phật dạy hãy siêng năng tu tập Tứ Niệm Xứ.
Ðoạn kinh trên đây đã xác định pháp
môn Tứ Niệm Xứ có tầm quan trọng nhất trong sự tu tập ly dục ly ác pháp. Nhất
là năm tâm hoang vu mà bài kinh này chỉ rất rõ.
Bạn về đây tu tập là tin ai? Có phải
tin ở Thầy chăng? Hay về đây để tu thử? Các bạn trả lời đi? Khi về đây tu hành
bạn còn nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín đối với bậc Ðạo
Sư, đối với pháp của Thầy dạy, đối với chúng ở đây, thường đi nói chuyện với họ,
tức là thiếu tâm cung kính chúng, không ôm pháp chặt như ôm phao qua biển, tức
giận các vị đồng tu khi không được nói chuyện với họ được. Ðó là những tâm
hoang vu khiến cho bạn tu hành bỏ cuộc. Bạn đã bỏ tu viện Chơn Như ra đi để tìm
con đường giải thoát khác, nhưng đến giờ này đã 10 năm, 20 năm rồi, bạn đã làm
chủ thân tâm được những gì chưa? Hay chỉ biết nói lừa đảo người mà thôi. Có bạn
đã rời khỏi tu viện Chơn Như để học tập có bằng Tiến sĩ Phật học. Ðó là bạn học
để nói láo, có ích lợi gì cho bạn? Nhưng điều quyết chắc là bạn cũng vẫn còn
trôi lăn trong biển sanh tử luân hồi, chỉ có đạt được danh, lợi dẫy đầy, chùa
to, Phật lớn, xe cộ nhiều, máy móc, phòng ốc sang trọng như một nhà giàu tỉ phú
không hơn không kém. Tâm hoang vu của bạn đã hướng dẫn bạn về rừng rú âm u ngu
si./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét