TÍNH CHẤT CỦA NGHIỆP
"Gieo
giống nào, gặt giống nấy." -- Tạp A Hàm
Chúng ta có phải gặt hái tất cả những nhân đã gieo không?
Không nhất thiết phải như thế. Trong bộ Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, Đức
Phật dạy:
"Nếu có ai cho rằng con người phải gặt hái trọn hậu quả
theo tất cả những hành động trong quá khứ thì không thể có đời sống đạo đức, và
con người cũng không thể có cơ hội tận diệt phiền não: Nhưng nếu nói rằng quả
phải gặt tương xứng với nhân đã gieo thì ắt có đời sống đạo đức và con người sẽ
có cơ hội dập tắt phiền não." [1]
Như vậy, theo Phật Giáo có thể uốn nắn,
chuyển hoán cái nghiệp, mặc dầu kinh Pháp Cú, câu 127, có dạy:
"Không phải bay lên trời cao, lặn
xuống biển sâu, hay chui vào hang núi, mà ta có thể tìm được nơi nào trên thế
gian nầy để lẫn tránh quả dữ của Nghiệp xấu."
Nếu như phải trả quả của tất cả những nghiệp đã tạo trong quá
khứ thì chúng sanh ắt phải chịu vĩnh viễn sống trong đau khổ và không thể mong
có ngày giải thoát.
Dầu không hoàn toàn làm chủ cái
Nghiệp - vì nhân đã gieo - nhưng ta cũng không tuyệt đối phải bó tay chịu làm
nô lệ. Dầu con người xấu xa đê tiện nhất cũng có thể cố gắng trở nên trong sạch
đạo đức. Chúng ta luôn luôn biến đổi và luôn luôn trở thành một cái gì mới, và
cái mới ấy tùy thuộc chính ta, tùy thuộc nơi hành động của chính ta. Từng giây,
từng phút ta có thể tự cải hoán, làm cho ta trở nên tốt đẹp hơn, cũng như xấu
xa hơn. Dầu người tội lỗi hư hèn nhất cũng không đáng khinh. Trái lại, nên tạo
cho họ một niềm tin tưởng nơi sự cố gắng cải thiện bẩm chất bình sanh của họ.
Nên thương hại họ, biết đâu một lúc nào trong quá khứ ta cũng cùng ở trong tình
trạng với hạng người hư hèn ấy và ta đã tiến bộ. Hôm nay ở một vị trí thấp kém,
họ cũng có thể cố gắng theo ta và có khi tiến trổi hơn ta.
Ai biết được cái nghiệp đã tích trữ của
một người khác?
Angulimala, tên sát nhân lừng danh khét
tiếng một thời, đã giết chết cả ngàn anh em đồng loại, trở thành một vị A La
Hán và thoát khỏi quả dữ của những hành động tàn ác ấy.
Cô Ambapali, một gái giang hồ biết hồi tâm
tu hành cũng đắc Quả A La Hán.
Alavaka, dạ xoa hung tợn thường ăn thịt người, từ bỏ thói dữ
và cố gắng tu tập, cũng đắc Quả Tu Đà Hườn.
Vua Asoka (A-Dục) có tiếng là hung ác bạo
tàn, trở thành một đấng minh quân, đổi những trận giặc xâm lăng khốc liệt ra
những chiến dịch truyền bá đạo lý cao siêu thâm diệu và giáo huấn từ bi của Đức
Phật, để mưu cầu hạnh phúc cho một phần nhân loại:
"Giữa oai danh của trăm ngàn vua chúa trong lịch sử nhân
loại, danh thơm cao quý vừa hùng vĩ vừa dịu dàng, vừa trong sáng vừa trầm lặng,
của Hoàng Đế A Dục chói ngời rực rờ như một vị sao tỏ rạng."
Đó là một vài trường hợp hiếm hoi chỉ rằng
nhờ ý chí hùng dũng, con người có thể đổi hẳn tâm tánh, từ xấu ra tốt, từ dữ ra
lành.
Trong một vài trường hợp khác, cũng có thể
quả của một nhân yếu mà tái sanh tròn đủ, còn quả của một nhân mạnh lại được
lắng dịu.
Đức
Phật dạy:
"Hỡi nầy các Tỳ khưu, người kia không biết khép mình vào
kỹ cương của thân, của đạo lý, của tâm, của trí tuệ, người kém đạo đức, kém
giới hạnh và do đó, sống đau khổ.
"Dầu một hành động tầm thường của người ấy cũng đủ tạo
quả đưa vào cảnh khổ.
" Hỡi nầy các Tỳ khưu, người nọ có
nếp sống kỹ cương về phương diện vật chất cũng như về mặt tinh thần đạo đức, và
trí tuệ, người đạo đức cao thượng, biết làm điều thiện và lấy tâm Từ vô lượng
đối xử với tất cả mọi chúng sanh.
"Người như thế, dầu có một hành động lầm lạc tầm thường
như kể trên, hành động ấy không tạo quả trong hiện tại hay trong kiếp vị lai.
[2]
"Tỷ như có một người kia sớt một muổng muối vào bát
nước. Nầy hỡi các Tỳ khưu, các thầy nghĩ như thế nào? Nước trong bát có thể trở
nên mặn và khó uống không?
- Bạch hóa Đức Thế Tôn, có.
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì nước trong bát thì
ít mà cho vào một muổng muối thì phải mặn.
- Bây giờ, tỷ như người kia đổ muổng muối
ấy xuống sông Hằng (Ganges), nầy hỡi các Tỳ khưu, các thầy nghĩ sao? Nước sông
Hằng có vì muối ấy mà trở nên mặn và khó uống không?
- Bạch hóa Đức Thế Tôn, không?
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì sông Hằng rộng lớn,
nước nhiều, chỉ bấy nhiêu muối ấy không đủ làm mặn.
- Cũng dường thế ấy, có trường
hợp người kia vì phạm một lỗi nhỏ mà chịu cảnh khổ. Người khác cũng tạo một lỗi
tương tợ nhưng gặt quả nhẹ hơn và sau khi chết, quả kia không trổ sanh nữa, dầu
trổ một cách nhẹ nhàng.
"Có thể có trường hợp người kia bị bỏ
tù vì ăn cắp nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu, và cũng trong trường hợp
người nọ không bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu.
"Ai bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm xu?
"Khi người ta nghèo khổ, túng thiếu, bần cùng thì dầu
chỉ nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu cũng bị bỏ tù.
"Ai không bị bỏ tù vì nữa xu, một xu,
hay một trăm đồng xu?
"Khi người ta giàu có, dư dả, sung túc, thì không bị bỏ
tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu.
"Cùng một thế ấy, có trường hợp người kia chỉ có một vài
hành động bất thiện nhỏ nhặt mà phải lâm vào cảnh khốn cùng, và có trường hợp
người nọ cũng phạm lỗi lầm y như vậy mà không phải gặt quả nào trong kiếp hiện
tại. Hành động bất thiện ấy cũng không có hậu quả nhỏ nhen nào sau kiếp sống
nầy. [3]"
Nguyên Do Vì Sao Đôi Khi Quả
Trổ Sanh Trái Ngược Với Nhân Đã Gieo
Nhân lành tạo quả lành. Nhưng đã gieo nhân lành rồi còn hối
tiếc, đã làm một việc thiện mà còn ăn năn, hối hận, thì quả trổ sanh không được
tương xứng với nhân.
Tích chuyện sau đây là một ví dụ:
Ngày kia Vua Pasenadi xứ Kosala đến hầu
Đức Phật và bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, tại thành Savatthi
(Xá Vệ) có một nhà triệu phú vừa qua đời mà không có người thừa kế. Vì lẽ ấy
bao nhiêu tài sản của ông, gồm hàng trăm thoi vàng, ngoài số bạc và của cải
khác, đều được bổ xung vào kho. Bạch Đức Thế Tôn, người giàu có lúc ấy còn sanh
tiền sống thật kham khổ, ăn thì chỉ cơm nát với thức ăn thừa và thiu, mặc thì
chỉ dùng vải thô và chỉ gai, còn di chuyển thì chỉ có một chiếc xe cũ kỹ với
con ngựa gầy."
Đức Phật dạy:
"Mặc dầu vậy, trong một tiền kiếp nhà triệu phú ấy
thường để bát cúng dường đến một vị Độc Giác Phật tên là Taragasikhi. Tuy để
bát cúng dường nhưng ông không bao giờ quan tâm đến công đức ấy. Ông lại có ý
hối tiếc vì đã mất của, và tự nghĩ thầm: 'Phải chi ta để dành vật thực ấy cho
người ăn kẻ ở trong nhà còn hơn.' Ngoài ra, ông còn giết chết một người cháu để
sang đoạt gia tài.
"Do quả lành của công đức bố thí cúng
dường, ông tái sanh bảy lần trong cảnh Trời. Cũng do quả lành ấy ông tái sanh
bảy lần làm triệu phú tại thành Savatthi (Xá Vệ) nầy. Vì ông đã hối tiếc, nghĩ
thầm rằng: 'Phải chi ta để dành vật thực ấy cho người ăn kẻ ở trong nhà còn
hơn', nên mặc dầu giàu có, ông không thể toại hưởng sự nghiệp vĩ đại ấy, không
dám ăn ngon, không dám mặc đẹp, luôn luôn lo sợ hết của, không dám nhờ tiền để
tạo tiện nghi cho đời sống vật chất.
"Vì đã giết chết một người
cháu để sang đoạt tài sản, nhà triệu phú độc ác ấy phải chịu đau đớn nhiều năm,
nhiều trăm năm, trong cảnh khổ. Và cũng vì hành động ác độc ấy ông phải chịu
tuyệt dòng liên tiếp trong bảy kiếp, do đó bao nhiêu tài sản của ông phải bị
xung vào quốc khố. [4]"
Nhà triệu phú được một sự nghiệp vĩ đại
nhờ nhân tốt đã gieo. Tuy nhiên đã gieo nhân lành mà còn hối tiếc nên dù được
sự nghiệp lớn lao, ông không được hưởng.
Duyên Hỗ Trợ và Duyên Trở Ngại
Trong sự báo ứng của nghiệp ta nên biết rằng có những năng
lực hỗ trợ, nâng đỡ, tạo điều kiện, trợ duyên cho quả sớm trổ sanh, và ngược
lại cũng có những năng lực kiềm hãm, ngăn chặn, không cho quả trổ sanh, hay
nghịch duyên.
Sự sanh trưởng (gati), thời gian hay hoàn
cảnh (kala), nhân cách hay tướng mạo (upadhi), và sự nỗ lực cố gắng (payoga) là
những năng lực trợ duyên hay nghịch duyên, hỗ trợ hay ngăn cản quả trổ sanh.
Thí dụ như người kia sanh trưởng trong một gia đình quý phái,
giàu sang, hay trong hoàn cảnh an lành, sự tái sanh tốt ấy đôi khi là một năng
lực ngăn chặn không cho quả dữ trổ sanh.
Trái lại, người nọ sanh trưởng trong gia đình ghèo khó khốn
cùng, hay trong cảnh khổ, sự tái sanh bất hạnh của người nầy tạo điều kiện
thuận tiện cho quả dữ trổ sanh.
Danh từ Phật Giáo gọi những năng lực ấy là "tái sanh
thuận lợi" (gati sampatti) và "tái sanh bất thuật lợi" (gati
vipatti).
Người kia, dầu không phải là hạng thông
minh, mà nhờ có Nghiệp tốt, sanh trưởng trong hoàng tộc thì cũng được thiên hạ
kính nể kiêng vì. Nếu cũng kém thông minh như người ấy mà sanh trong gia đình
túng thiếu bần hàn thì ắt không được kính trọng như vậy.
Đức vua Dutthagamani xứ Tích
Lan gieo nhân xấu vì đã gây chiến tranh chống tộc Tamil, đồng thời cũng tạo
nhiều Nghiệp tốt do các công tác từ thiện có tánh cách tôn giáo và xã hội. Nhờ
Nghiệp Tái Tạo tốt ấy Ngài được tái sanh vào cỏi Trời. Tục truyền rằng đến thời
Đức Phật Di Lạc (Metteya) ra đời, Ngài sẽ trở xuống một lần chót. Nhân bất
thiện mà Ngài đã gieo không trổ quả, nhờ được "tái sanh thuận lợi"
trong hoàn cảnh tốt.
Trường hợp vua Ajatasattu (A-Xà-Thế) là
một thí dụ khác. Phạm trọng tội giết cha, nhưng về sau ông đến gần Đức Phật và
trở nên một vị minh quân có tâm đạo nhiệt thành. Vì mang trọng giết cha, ông
phải tái sanh vào cảnh khổ, và do sự tái sanh bất thuận lợi ấy, bao nhiêu nhân
lành ông đã gieo không đủ duyên hỗ trợ để trổ quả.
Dung mạo đẹp đẽ (upadhi sampatti) hay xấu xa (upadhi vipatti)
là hai yếu tố khác có thể hộ trợ hay gây trở ngại cho sự báo ứng của Nghiệp.
Nếu nhờ Nghiệp tốt mà người kia được tái
sanh thuận lợi, nhưng bất hạnh phải tật nguyền hay có tướng mạo dung nhan xấu
xí thì cũng không hoàn toàn trọn hưởng phước lành của mình. Một vị hoàng tử
đáng lẽ phải nối ngôi cha để trị vì thiên hạ, nhưng nếu vị ấy tật nguyền cũng
có thể đó là một trở ngại, không được lên ngôi báu.
Trái lại, diện mạo phương phi là yếu tố
giúp thành công. Một đứa trẻ tuy nghèo nhưng mặt mày thông minh sáng sủa có thể
làm cho người khác chú ý đến và gieo ít nhiều thiện cảm đến người khác.
Thời gian hay cơ hội thuận lợi và bất thuật lợi (kalasampatti
và kalavipatti) là hai yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến sự báo ứng của Nghiệp.
Thí trong một thiên tai, tất cả đều phải cùng chung chịu một số phận. Đó là
điều kiện bất thuận lợi, trợ duyên cho nghiệp xấu trổ sanh. Cũng có những điều
kiện thuận lợi làm suy giảm năng lực hoặc ngăn chặn không cho Nghiệp xấu trổ
sanh.
Trong các năng lực trợ duyên và nghịch duyên, hạnh tinh tấn
hay sự nỗ lực cố gắng (payoga) là quan trọng hơn tất cả. Trong sự báo ứng xủa
Nghiệp, tình trạng cố gắng hay thiếu cố gắng giữ một vai trò chánh yếu. Do cố
gắng trong hiện tại, ta có thể chuyển Nghiệp, tạo Nghiệp mới, hoàn cảnh mới,
môi trường mới, cả một thế giới mới.
Dầu có điều kiện thuận lợi và
được trợ duyên đầy đủ mà nếu không nỗ lực cố gắng thì chẳng nhưng ta bỏ mất cơ
hội quý báu, mà có khi còn hoang phí cả sự nghiệp, vật chất hay tinh thần.
Nếu bệnh mà không tìm thầy thuốc. Nếu gặp
khó khăn mà không cố gắng giải quyết, không nỗ lực để vượt qua, thì quả dữ ắt
được trợ duyên đầy đủ để trổ sanh. Trái lại, nếu ta tận lực cố gắng để vượt qua
mọi khó khăn, luôn luôn cải thiện hoàn cảnh, tận dụng mọi khả năng mọi cơ hội
hiếm có để vững vàng tiến bộ thật sự, Nghiệp tốt sẽ được trợ duyên đầy đủ để
trổ sanh.
Mặc dầu không hoàn toàn làm nô lệ cũng không tuyệt đối làm
chủ cái Nghiệp, chắc chắn là những yếu tố trợ lực và nghịch duyên ấy cũng ảnh
hưởng phần nào năng lực báo ứng của Nghiệp, do sự tái sanh, hoàn cảnh, cá tính,
cố gắng cá nhân, và những yếu tố tương tợ. Chính lý Nghiệp Báo đem lại cho
người Phật tử sự an ủi, niềm hy vọng, chỗ nương tựa và khích lệ tinh thần để có
thể đảm vững bước trên con đường tiến bộ.
Khi có việc bất chắc xảy đến, khi gặp trợ ngại, khó khăn,
thất bại, và hoàn cảnh bất hạnh, người Phật tử nhận định rằng mình đang gặt hái
giống nào mà trước kia chính mình đã gieo, mình đang trang trãi một món nợ đã
vay lúc nào trong quá khứ.
Tuy nhiên, thay vì phải bó tay chịu quy
hàng hoàn cảnh để cho định luật Nghiệp Báo tự nhiên diễn tiến, người Phật tử
tận lực cố gắng diệt trừ, bứng tận gốc rễ giống cỏ xấu, và gieo trồng những
giống tốt. Tương lai hoàn toàn nằm trong tay ta.
Người tin tưởng lý Nghiệp Báo không khi
nào lên án kẻ hư hèn tội lỗi bởi vì mọi người đều có khả năng và cơ hội để tự
cải thiện bất cứ lúc nào. Người kia dầu phải chịu đau khổ trong hiện tại nhưng
vẫn có hy vọng như mọi người, rằng trong một ngày tươi đẹp nào, chính mình cũng
có thể đạt Đạo Quả cao thượng, an vui hạnh phúc vĩnh cửu trường tồn. Ta tạo địa
ngục cho ta, do chính hành động của ta. Cũng do hành động của chính ta, ta tạo
thiên đàng cho ta.
Một người Phật tử thuần thành và hiểu biết
chắc chắn định luật Nghiệp Báo không khi nào van vái cầu xin được cứu rỗi. Trái
lại, đặt trọn niềm tin nơi chính mình, nơi hạnh tinh tấn của mình, để được giải
thoát. Thay vì bó tay đầu hàng hay vuốt ve tâng bốc một thần lực siêu nhân nào,
người Phật tử đặt trọn niềm tin mình trên ý trí của mình, và không ngừng hoạt
động để tạo an lành cho tất cả.
Niềm tin vững chắc nơi Nghiệp
Báo "nâng cao giá trị của hạnh tinh tấn và kích thích lòng nhiệt
thành", bởi vì lý Nghiệp Báo dạy mỗi người phải lãnh lấy trách nhiệm của
mình.
Đối với người Phật tử sơ cơ, định luật
Nghiệp Báo là một điều răn. Với hạng người trí thức, Nghiệp Báo là một khích
lệ.
Luật Nhân Quả giải thích vấn đề đau khổ,
giải thích tình trạng bí ẩn của cái được gọi là Số Mạng và Tiền Định của một
vài tôn giáo và, trên hết, giải thích hoàn cảnh chênh lệch giũa loài người,
giữa chúng sanh.
Chúng ta là vị kiến trúc sư xây đắp số
phận của chúng ta. Chính ta tạo ra hay tiệu diệt ta. Chính ta tạo thiên đàng
cho ta và cũng chính ta tạo địa ngục cho ta.
Những gì ta nghĩ, nói, và làm, là của ta. Chính tư tưởng, lời
nói và hành động là Nhgiệp. Và Nghiệp đưa ta lên hay xuống từ kiếp nầy sang
kiếp khác, mãi mãi trong vòng luân hồi.
Đức Phật dạy:
-ooOoo-
Chú
thích:
[1] Anguttara
Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, phần 1, trang 249. Xem Warren, "Buddhism in
Translations", trang 218.
[2] Đức Phật muốn ám
chỉ các vị A La Hán.
[3] Aguttara
Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, phần 1, trang 249, Xem Warren, "Buddhism in
Translations", trang 218.
[4] Samyutta Nikaya,
Tạp A Hàm, phần i, trang 91. Xem Warren, "Buddhism in Translations",
trang 296; và Grimm, "The Doctrine of the Buddha", trang 248.
[5] Kindred Sayings,
phần i, trang 98.
-ooOoo-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét