ĐỜI SỐNG BẤP BÊNH
"Ðời Sống Quả Thật Bấp Bênh, Vô Ðịnh, Cái Chết Sẽ
Ðến, Chắc Như Thế."
Ðó là một câu nói rất quen thuộc trong
Phật Giáo. Ðã thấu rõ rằng chết là diễn biến chắc chắn phải đến và là hiện
tượng thiên nhiên mà mỗi người đều phải đối phó, tuy nhiên, theo bẩm sinh tự
nhiên, tất cả chúng ta đều sợ chết bởi vì ta không hiểu biết suy tư như thế nào
về cái chết không thể tránh. Chúng ta thích bám níu chặt chẽ vào đời sống và
vào cơ thể vật chất của mình, do đó phát triển mạnh mẽ lòng tham và luyến ái.
Một em bé vào đời
đem niềm hoan hỷ và hạnh phúc đến tất cả thân bằng quyến thuộc. Chí đến bà mẹ,
đã trải qua những ngày tháng cưu mang cực kỳ khổ nhọc, cũng quên đi nỗi khổ và
lấy làm rất vui sướng, mãi mê nhìn em bé sơ sanh với tấm lòng trìu mến yêu
thương. Bà cảm thấy rằng những khổ nhọc trong bao nhiêu ngày tháng, giờ đây đã
được đền bù xứng đáng. Tuy nhiên em bé khóc oa oa, hình như muốn thổ lộ tâm
tình, nói lên rằng khi bước vào đời em đã chia xẻ những khổ đau của mẹ. Em
trưởng thành, tiến vào lứa tuổi thiếu niên, thanh niên, rồi đến trung niên, tạo
đủ thứ nghiệp -- thiện và bất thiện. Rồi em trở nên già nua và cuối cùng buồn
thảm giả từ cuộc đời, xa lìa bằng hữu họ hàng. Ðó là bản chất của kiếp sinh tồn
mà mỗi chúng sanh phải trải qua. Người ta cố gắng trốn tránh và lẫn thoát nanh
vuốt của thần chết, nhưng không ai có đủ khả năng làm được việc ấy. Vào lúc lâm
chung, tâm họ vởn vơ bay liệng quanh quẩn bám theo tài sản sự nghiệp, lo lắng
cho con, cho cháu, cho người nầy, người nọ. Kế tiếp theo sau, nhưng không phải
là cuối cùng, họ hết lòng lo lắng đến cái thân quý báu và yêu dấu của họ, mặc
dầu được thận trọng chăm sóc, ngày nay đã mòn mỏi, suy tàn, hư hoại, và kiệt
lực. Họ rầu buồn, họ sầu khổ vì tâm phải lìa thân. Quả thật không thể chịu
đựng, mặc dầu không thể tránh.
Ðó là phương cách mà phần đông người ta
từ giả cuộc đời -- với những lời ta thán, than van rên rỉ. Nỗi thống khổ mà cái
chết đem lại được người ta xem là vô cùng khủng khiếp -- đó là một thái độ tinh
thần được dưỡng nuôi trong đêm tối của vô minh.
Sợ Chết
Con người bị khuấy
động, không phải do sự vật bên ngoài mà vì những hình ảnh của đời sống tương
lai do tín ngưỡng và trí tưởng tượng gợi ra trong tâm. Như cái chết chẳng hạn,
tự nó không phải là cái gì đáng kinh sợ; tình trạng khủng khiếp ghê sợ chỉ hiện
hữu trong tâm. Thông thường ta không đủ can đảm để diện đối diện nhìn thẳng vào
ý nghĩ về cái chết của chính mình. Ðối với một tâm hồn không thể đương đầu với
thực tế, nói nhiều về chân lý của sự khổ có thể được xem hình như quá kinh
khủng và không thể chấp nhận, nhưng chắc chắn có thể giúp làm giảm suy, hay
loại trừ tình trạng kinh sợ vì không biết phải trực diện cái chết như thế nào.
Một khi đời sống được phóng ra như viên đạn của một khẩu súng, thì nó bay thẳng
đến mục tiêu -- sự chết. Ðã nhận thức như vậy, ta phải can đảm đối phó với diễn
tiến thiên nhiên nầy. Muốn có tự do trong đời sống, ta phải cũng được tự do
vượt ra khỏi nổi lo sợ cái chết. Tình trạng kinh sợ chỉ đến với những ai không
thấu hiểu những định luật của Thiên Nhiên. Trong bộ Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt
A Hàm, Ðức Phật dạy, "Kinh sợ phát sanh đến hạng cuồng si, không đến người
trí." Kinh sợ không phải gì khác hơn là những trạng thái tâm. Chúng ta hãy
nhớ lại những gì khoa học dạy về tiến trình của sự chết. Nó chỉ là một tình
trạng sinh lý suy mòn của cơ thể vật chất. Một cách không cần thiết chúng ta tự
tạo cho mình những tình trạng khủng khiếp tưởng tượng hay phỏng đoán, những
điều không bao giờ xảy ra. Như khoa học gia nổi tiếng, Sir William Osler, đã
viết "Theo kinh nghiệm về bệnh viện rộng lớn của tôi, phần đông người ta
chết thật sự không đau đớn hay lo sợ."
Một vị y tá kỳ cựu có lần nói, "Ðối
với tôi, thảm trạng quan trọng mà hình như nhiều người luôn luôn bị ám ảnh suốt
đời là nỗi lo sợ về hiện tượng chết -- nhưng rồi khi cái chết đến, họ nhận thấy
rằng nó cũng thiên nhiên như chính cuộc sống. Trong giờ phút cuối cùng, có ít
người sợ chết. Trong tất cả những kinh nghiệm bản thân của tôi, chỉ có một
người hình như cảm nghe khiếp sợ -- đó là một thiếu phụ đã có hành động hung ác
đối với người chị, và lúc ấy đã quá trễ để sửa mình."
"Vài điều kỳ
lạ và tốt đẹp xảy đến khi người ta đi đến cuối đoạn đường. Tất cả những điều lo
sợ, tất cả những trạng thái khiếp đảm và kinh hoàng, đều tan biến. Tôi thường
nhìn cặp mắt đầy kinh ngạc và hạnh phúc của họ khi họ nhận chân đây là sự thật.
Ðó là tất cả những phần tốt đẹp của Thiên Nhiên."
Luyến ái đời sống
trên thế gian làm cho ta sợ chết, một lo sợ không tự nhiên. Nó tạo ra những lo
âu về đời sống -- tạo ra con người không bao giờ dám mạo hiểm, dầu mạo hiểm cho
lẽ phải, mạo hiểm làm điều lành. Con người ấy sống trong sợ hải và luôn luôn lo
âu vài chứng bệnh hay một tai nạn sẽ đoạt mất đi cuộc đời nhỏ nhoi và quý báu
mà họ từng trìu mến tưng tiu.
Nhận thức rằng
chết là điều không thể tránh, người mến yêu cuộc sống trên thế gian sẽ vái van
cầu nguyện, ước vọng rằng "linh hồn" của họ sẽ vĩnh viễn tồn tại trên
một cảnh trời. Không ai có thể an tâm hoan hỷ trong cơn bão táp của lo sợ và
ước mong kỳ vọng. Rất khó mà coi thường và không quan tâm đến những biểu hiện
bề ngoài của bản năng tự sinh tồn ấy.
Tuy nhiên cũng có
phương cách để chế ngự sự lo sợ nầy. Hãy quên đi khái niệm về tự ngã; hãy đổi
chiều cái tình thương hướng nội ấy, chuyển xoay nó ra bên ngoài, tức thực hành
những công đức từ thiện và ban rải tình thương, lấy từ bi tưới mát mọi người.
Người thường xuyên
quan tâm đến sự thật là một ngày nào mình phải chết, và cái chết là điều không
thể cưỡng lại, sẽ nhiệt thành hoàn mãn bổn phận đối với những chúng sanh cùng
lặn hụp với mình trong đại trùng dương đời sống, trước khi trút hơi thở cuối
cùng, và điều ấy chắc chắn sách tấn mình chuyên cần trong thế gian nầy và trong
thế gian tới.
Ðã lưu tâm đến công trình phục vụ kẻ
khác ta sẽ sớm sủa thoát ra khỏi chính ta, ra khỏi những tình trạng ích kỷ của
luyến ái, kỳ vọng, mộng ảo, tự phụ và tự xem mình là chánh đáng.
Bệnh và Chết
Cả hai, bệnh và
chết, là những diễn biến tự nhiên trong đời sống của chúng ta, và ta phải chấp
nhận một cách hiểu biết, đúng như thật sự nó là vậy. Theo tâm lý học hiện đại,
nguyên nhân của tình trạng căng thẳng tinh thần quá độ là sự việc ta từ chối đối
phó và không chấp nhận những thực tại của đời sống. Nếu không sớm khắc phục hay
loại trừ những căng thẳng tinh thần quá độ, nó sẽ thật sự gây nên những chứng
bệnh trầm trọng cho cơ thể vật chất. Cố giữ tình trạng lo âu và thất vọng sai
lạc trong khi bệnh hoạn sẽ làm cho cơn bệnh càng tăng trưởng thêm.
Về cái chết, người
có tâm và hành động trong sạch phải không bao giờ sợ chết. Tất cả chúng ta đều
là sự cấu hợp của hai thành phần, danh và sắc, tức phần tâm linh và phần vật
chất, và như vậy thật sự không có một tự ngã cá nhân nào chết. Phản ứng của
nghiệp bất thiện, phát sanh từ những hành động bất thiện quá khứ, có thể còn
nằm đó với ta trong khi ta tái sanh, và tạo nguyên nhân để ta gánh chịu hậu quả
đau khổ trong kiếp sống mới. Nếu ta chuyên cần tinh tấn để tạo thiện nghiệp như
sống đời đạo hạnh thanh cao và có những hành động tạo phước mỗi khi có thể
được, bằng cách làm như vậy ta có thể mạnh dạn đương đầu với cái chết một cách
can đảm và thực tiễn, bởi vì theo Phật Giáo không có một "thần linh cứu
thế" mà ta có thể tín nhiệm để trao gánh nặng, làm giảm suy quả dữ của
những hành động lầm lạc trong quá khứ.
Lúc nào ta cũng
phải nhớ nằm lòng lời khuyên nhủ của Ðức Bổn Sư: "Hãy tự con làm hải đảo
cho chính con; lúc nào cũng phải chuyên cần tinh tấn."
Người Phật tử không nên ưu phiền thái
quá vì cái chết của họ hàng và bè bạn. Ta không thể làm ngưng động bánh xe đời
sống. Khi một người chết, luồng nghiệp lực chảy trôi liên tục của người ấy được
chuyển sang kiếp sống mới. Họ hàng quyến thuộc và bạn bè thân hữu chỉ có thể
đưa cái xác chết đến nơi chôn cất hay hỏa táng, không thể đi xa hơn nữa. Người
chết chỉ có thể đem theo những hành động -- tốt hay xấu -- của mình. Những
người còn ở lại phía sau phải gánh chịu tình trạng mất mát người thân một cách
trầm tĩnh và hiểu biết. Chết là một tiến trình không thể tránh của thế gian.
Ðây là sự kiện chắc chắn duy nhất trên thế gian. Rừng hoang có thể trở nên
thành phố, và phố phường làng xóm có thể trở thành động cát hoang vu. Nơi mà
xưa kia là đồi núi, giờ đây có thể là biển hồ. Ta có thể thấy trạng thái biến
đổi bất luận ở đâu, nhưng cái chết là điều chắc chắn. Tất cả đều tạm bợ nhứt
thời. Chúng ta có những ông bà, và các ông bà ấy cũng có ông bà, nhưng hiện giờ
tất cả các vị ông bà ấy ở đâu? -- Tất cả đều lìa đời.
Chớ nên ngụy biện
rằng đây là một quan niệm bi quan về đời sống. Ðây là quan niệm thực tiễn có
tánh cách thực tiễn hơn tất cả các thực thể luận. Tại sao ta phải không thực
tiễn và phải bịt mắt trước sự thật? Có phải chăng cái chết tiêu hủy tất cả?
Chắc chắn là vậy. Không nên quên điều nầy.
Cơ năng của sự
chết là làm cho mọi người hay biết số phận của mình; dầu ta có thể cao sang
quyền quý đến đâu, dầu kỷ thuật khoa học hay ngành y học có tiến bộ như thế
nào, mức cùng của tất cả mọi người đều giống nhau: hoặc là nằm rụt trong quan
tài, hoặc chỉ còn là một nắm tro tàn trong hũ. Sự trôi chảy của dòng sanh-tử,
tử-sanh là một tiến trình luôn luôn tiếp nối nhau cho đến khi trở thành tuyệt
đối toàn hảo.
Ảnh Hưởng Của Con Người Vẫn Còn
Ðức Phật dạy:
"Thân thể của con người trở thành tro bụi. Nhưng tên tuổi hay ảnh hưởng
vẫn còn." ảnh hưởng của kiếp sống quá khứ đôi khi còn đi xa, lan rộng, và
có nhiều tiềm lực hơn là thân sống. Ðôi khi chúng ta hành động theo những suy
tư của mình trong kiếp quá khứ, mặc dầu cơ thể quá khứ ấy đã trở thành tro bụi.
Tiềm ẩn trong những năng khiếu của chúng ta các tư tưởng ấy cũng đóng một vai
trò quan trọng. Mỗi người còn đang sống tưởng chừng mình là hợp chất của tất cả
tổ tiên đã qua đời. Trong ý nghĩa nầy, ta có thể nghĩ rằng những vị anh hùng,
những đại triết gia, những hiền nhân, thi sĩ và những nhạc sĩ thời xưa của tất
cả dân tộc vẫn còn ở bên trong ta. Vì liên kết, tự nối liền với các thánh tử
đạo, các tư tưởng gia, ta có thể chia xẻ những tư tưởng sáng suốt, những lý
tưởng thánh thiện, chí đến những nhạc điệu bất diệt trong quá khứ. Dầu cơ thể
vật chất của những vị ấy đã chết, ảnh hưởng của các Ngài vẫn còn. Thân nầy chỉ
là sự phối hợp của những hóa chất luôn luôn chuyển biến được suy rộng một cách
trừu tượng. Con người phải nhận thức rằng kiếp sống của mình chỉ là một giọt
nước trong dòng sông không ngừng trôi chảy và phải lấy làm vui sướng để hoan hỷ
đóng góp phần của mình vào luồng trôi chảy rộng lớn gọi là đời sống.
Vì không hiểu biết
bản chất của đời sống, con người chìm đắm trong bùn lầy của vô minh. Họ than
khóc và kêu la ai oán. Nhưng khi sáng suốt nhận thức bản chất thật sự của đời
sống là gì, họ sẽ từ bỏ tất cả những sự vật phù du tạm bợ và cố tìm đến trạng
thái trường tồn Bất Diệt. Trước khi thành tựu trạng thái Vô Sanh Bất Diệt, con
người còn phải đối phó trở đi trở lại với hiện tượng chết. Vì cái chết tự nó vô
nghĩa lý, con người không nên cố gắng tìm cách khắc phục chuỗi dài những diễn
biến sanh-tử, tử-sanh.
Theo Phật Giáo,
đây không phải là kiếp sống đầu tiên cũng không phải là kiếp cuối cùng của ta
trên thế gian. Nếu hành động tốt đẹp với lòng thành thật tin tưởng, trong tương
lai ta có thể thọ hưởng một kiếp sống tốt đẹp hơn. Ðàng khác nếu cảm thấy không
muốn còn tái sanh trở đi trở lại, ta phải cố gắng tu tập để tiến đến mục tiêu
bằng cách tận lực chuyên cần tinh tấn, trau giồi và phát triển tâm nhằm tận
diệt tất cả mọi hình thức tham ái và những trạng thái tâm ô nhiễm.
Triết Lý Phật Giáo
Vị Thánh Nhân đã thành
đạt mức độ toàn hảo cao siêu nhất không khóc trước sự ra đi của người thân, bởi
vì Ngài đã tận diệt mọi cảm thọ làm xúc động. Ðức Anuruddha, lúc bấy giờ đã là
một vị A-La-Hán, không khóc khi Ðức Phật nhập diệt. Nhưng Ðức Ónanda, lúc ấy
chỉ là một vị Tu-Ðà-Huờn, không thể cầm lòng, phải biểu lộ nỗi khổ tâm của mình
qua những giọt lệ. Vị tỳ khưu đang khóc cần phải được nhắc nhở quan điểm của
Ðức Phật trong trường hợp tương tợ như sau:
"Này Pháp Hữu Ànanda, có phải chăng
Ðức Bổn Sư đã có dạy rằng cái gì đã được sanh ra, đã là chúng sanh, và những gì
được cấu thành, ắt phải tan rã. Ðó là bản chất thiên nhiên của tất cả các hành
(các pháp được cấu tạo); sanh rồi diệt -- Ðã được sanh ra tức nhiên phải hoại
diệt -- Và khi các hành hoàn toàn chấm dứt, chừng đó có trạng thái thanh bình
An Lạc Tối Thượng."
Những lời dạy trên
là nền tảng của triết lý Phật Giáo.
Nguyên Nhân Của
Phiền Não
Nguyên nhân đưa đến
phiền não của chúng ta là "Luyến ái", dưới mọi hình thức khác nhau.
Nếu muốn khắc phục sầu khổ ta phải loại trừ luyến ái -- chẳng những không luyến
ái người, mà cũng không luyến ái sự vật. Ðây là chân lý cùng tột; và đây là bài
học mà hiện tượng chết dạy ta. Luyến ái cho ta nhiều việc để thỏa mãn cảm xúc
và trải qua cuộc sống trần tục trên thế gian. Nhưng đến mức rốt cùng, cũng
luyến ái ấy là nguyên nhân của tất cả mọi ưu phiền của chúng ta. Ngoại trừ
trường hợp chúng ta đã thuộc nằm lòng bài học ấy, cái chết còn làm cho ta kinh
hoàng khiếp đảm.
Sự kiện nầy được
Ðức Phật diễn tả một cách tinh vi như sau:
"Cái chết đem đi một người, mặc dầu
người ấy trìu mến bám chặt vào con cái và tài sản -- cũng giống cơn nước lũ
mang đi cả một làng đang mê ngủ."
Câu Phật ngôn nầy
hàm xúc ý nghĩa rằng, nếu cả làng không đang mê ngủ mà tỉnh giác hay biết kịp
thời, thì nguy cơ của trận bão lụt đã được tránh khỏi.
Chết Là Hiện Tượng Phổ Cập Cùng Khắp
Giờ đây chúng ta
hãy nghiên cứu xem Ðức Phật giải quyết vấn đề như thế nào cho hai người, cả hai
đều sầu khổ vì luyến ái, và nguyên nhân là cái chết.
Một người là Kisà
Gotamì. Ðứa con duy nhất của bà bị rắn cắn chết. Bà ôm con trong lòng hơ hải
chạy đến cầu cứu với Ðức Phật. Ðức Phật bảo bà đi tìm cho Ngài vài hột cải, mà
hột cải ấy phải lấy từ trong một gia đình mà không bao giờ có người chết. Nhưng
bà không tìm ra một gia đình như thế. Mỗi nhà mà bà đi đến đều hoặc ở trong
thời kỳ tang chay, hoặc đã khóc một người chết, vào lúc nào trong quá khứ. Ðến
chừng đó bà nhận ra chân lý đắng cay: rằng cái chết phổ cập cùng khắp mọi nơi.
Chết đến với tất cả mọi người, không chừa ai. Sầu muộn là di sản mà mỗi người
đều thừa kế.
Người khác mà Ðức
Phật khuyên nhủ là Patàcàrà. Trường hợp của bà càng buồn thảm hơn. Trong một
thời gian ngắn bà mất hai con, chồng, anh, cha, mẹ và tất cả tài sản sự nghiệp.
Cuồng trí, bà xốc xếch y phục chạy hoang dại ngoài đường cho đến khi gặp Ðức
Phật. Ðức Phật phục hồi tâm trí cho bà và đưa bà thoát ra khỏi cơn khủng hoảng,
trở lại trạng thái bình thường, bằng cách giải thích rằng mọi người đều phải
xem cái chết là hiện tượng tự nhiên, đến với tất cả chúng sanh.
"Nầy Patàcarà,
không phải đây là một lần duy nhất mà con phải chịu đau khổ vì mất người thân.
Trong chuỗi dài những kiếp sống trong quá khứ con đã khóc cái chết của một
người cha, một người mẹ, khóc chồng, khóc con, và khóc thân bằng quyến thuộc.
Trong khi khóc như thế vì đau khổ, nước mắt của con chảy ra còn nhiều hơn là
nước trong biển cả." Sau khi nghe xong lời dạy, bà Patàcarà nhận thức tánh
cách không chắc chắn của đời sống.
Cả hai bà, Kisà
Gotamì và Patàcàrà, đều hiểu biết ý nghĩa của tình trạng đau khổ, và mỗi bà
lãnh hội bài học xuyên qua kinh nghiệm thảm khốc của chính mình. Khi thấu hiểu
thâm sâu Chân Lý Ðầu Tiên của sự đau khổ, "Khổ Thánh Ðế", ta cũng
hiểu biết luôn ba Thánh Ðế kia. "Nầy chư Tỳ Khưu, người nào thông hiểu cái
khổ", Ðức Phật dạy, "cũng thông hiểu sự phát sanh của đau khổ, sự
chấm dứt đau khổ, và con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ."
Ngũ Uẩn
Chết là sự tan rã
của Ngũ uẩn. Ngũ uẩn (panca-khandha) hay năm nhóm ấy là tưởng, thọ, hành, thức
và sắc. Bốn uẩn đầu là những nhóm thuộc về tinh thần, danh hay nàma, hợp thành
đơn vị tâm linh. Uẩn thứ năm, r|pa, sắc, là nhóm vật chất.
Một cách chế định,
ta gọi sự phối hợp tâm-vật-lý nầy là cá nhân, người, hay tự ngã. Do đó mỗi thực
thể hiện hữu như vậy không phải là cá nhân mà chỉ là sự cấu hợp của những phần
tử danh và sắc. Thông thường chúng ta không xem năm uẩn là những hiện tượng, mà
thấy đó là thực thể đơn thuần nguyên vẹn thường còn, một người, hay một chúng
sanh, bởi vì tâm của chúng ta si mê, và bởi vì trong thâm tâm, chúng ta muốn
xem đó là tự ngã, là chính ta, để thỏa mãn tính ngã mạn của mình. Chúng ta chỉ
có thể thấy thực tướng của sự vật khi nào lập tâm nhẫn nại và quyết thấy cho
được sự vật đúng như sự vật là vậy.
Hãy hướng cái nhìn
trở vào bên trong, quan sát tận tường tâm mình, nghiên cứu từng hóc hẻm và ghi
nhận một cách khách quan, không suy tư, không để cho ý nghĩ riêng tư của mình
xen vào tiến trình, và chuyên cần trau giồi thiền tập đủ lâu, đúng theo những
gì Ðức Phật ban dạy trong Kinh Niệm Xứ (Sati Patthàna Sutta). Chừng ấy ta sẽ
thấy năm uẩn không phải là một thực thể mà chỉ là chuỗi dài tiến trình
tâm-vật-lý.
Chừng ấy ta sẽ
không lầm lộn xem cái bề mặt giả tạm là thật.
Chừng ấy ta sẽ
thấy các uẩn nhanh chóng phát sanh và hoại diệt, tiếp nối nhau sanh-diệt,
sanh-diệt, trong một chuỗi dài, không bao giờ giống hệt nhau trong hai khoảnh
khắc kế tiếp, không bao giờ tịnh mà luôn luôn ở trong trạng thái động, luôn
luôn trôi chảy, luôn luôn trở thành một cái gì khác.
Tái Sanh
Bốn danh uẩn, tức
thức (tâm vương) và nhóm ba tâm sở (thọ, tưởng, hành) hợp thành Nàma, danh, hay
phần tâm linh, liên tục chảy trôi, sanh-diệt, sanh-diệt không gián đoạn, chặp
nầy đến chặp kế, nhưng chặp sau không giống hẳn chặp trước, vì chặp trước đã diệt,
không còn nữa. Mỗi chặp tức khắc tìm một nền tảng vật lý mới để sinh hoạt --
một lớp vật lý mới, thích hợp và thích nghi với tất cả các uẩn để điều hoà sinh
hoạt.
Nghiệp tác động
như một định luật, và định luật nầy sắp xếp các uẩn cho một người sau khi chết.
Hậu quả là "tái sanh".
Một Bó Những
Nguyên Tố và Những Năng Lực
Một cách giản lược,
sự phối hợp của năm uẩn được gọi là sanh. Tình trạng tồn tại của các uẩn như
một bó, một nhóm, được xem là đời sống. Sự tan rã của những nhóm nầy gọi là
chết. Và sự phối hợp trở lại của những nhóm nầy gọi là tái sanh. Tuy nhiên, đối
với người thường, không dễ gì hiểu biết những nhóm gọi là uẩn ấy phối hợp trở
lại như thế nào. Ðứng về phương diện nầy, sự hiểu biết thích nghi về bản chất
của những nguyên tố, về năng lực tâm linh, về định luật nghiệp báo và tác dụng
phối hợp với những năng lực của vũ trụ, quả thật vô cùng thiết yếu. Ðối với vài
người, đó chỉ là một diễn biến đơn giản và thiên nhiên. Ðối với họ cái chết chỉ
là tình trạng phân rã của năm nguyên tố, và sau đó thì không còn gì nữa. Ðối
với người khác, chết là sự chuyển sinh linh hồn, "linh hồn" di chuyển
từ một cơ thể nầy sang một thân khác; theo những người khác nữa chết có nghĩa
là sự ngưng động của linh hồn, chờ đến một "Ngày để được Xét Xử". Tuy
nhiên, đối với người Phật tử, chết chỉ là sự chấm dứt tạm thời của một hiện
tượng tạm thời. Ðây không phải là tuyệt diệt, chấm dứt hẳn cái được gọi là
chúng sanh.
Những Nguyên Nhân Của Sự Chết
Theo Phật Giáo,
chết có thể xảy ra theo một trong bốn phương cách sau đây:
1. Có thể chết vì hết tuổi thọ. Loại
chết nầy được gọi là Ayukkaya;
2. Có thể chết vì năng lực của nghiệp
tái tạo, tức nghiệp làm nguyên nhân cho sanh và tử, đã cạn. Loại chết nầy được
gọi là Kammakkhaya;
3. Có thể chết vì hai nguyên nhân kể
trên đồng chấm dứt cùng một lúc;
4. Cuối cùng, có thể chết vì những
nguyên nhân xảy đến từ bên ngoài như tai nạn, như những biến cố bất thường --
do những hiện tượng thiên nhiên hoặc do nghiệp đã tạo trong những kiếp sống quá
khứ không có nhắc đến trong nguyên nhân loại thứ nhì (2). Loại chết nầy được
gọi là Upacchedake.
Có những hình ảnh
tương đồng để so sánh và cho thấy rõ bốn loại chết. Bốn loại chết nầy giống như
bốn trường hợp làm tắt một ngọn đèn dầu. ánh sáng của một ngọn đèn dầu có thể
tắt vì một trong bốn lý do sau đây:
1. Vì tim lụn. Ðiều
nầy cũng giống như tuổi thọ đã hết;
2. Vì hết dầu. Cũng giống như chết vì hết nghiệp lực tái tạo;
3. Vì đồng thời, tim lụn và hết dầu cùng một lúc. Cũng giống như cái chết vì
tuổi thọ và nghiệp lực tái tạo đồng thời chấm dứt;
4. Vì những nguyên nhân bên ngoài như một ngọn gió mạnh thổi qua. Cũng giống
cái chết do nguyên nhân bên ngoài, tai nạn v.v...
Do đó không phải
chỉ có nghiệp (Kamma) là nguyên nhân đưa đến chết. Còn có những nguyên nhân
khác từ bên ngoài. Giáo Huấn của Ðức Phật rõ ràng khẳng định rằng riêng Nghiệp
(Kamma) không giải thích tất cả những gì xảy ra trong đời sống của chúng ta.
Ðối Phó Với Những Sự Việc Xảy Ra Trong
Ðời Sống
Trước những sự việc
xảy ra không thể tránh, ta phải đối phó như thế nào? Phải sớm tự đề cao cảnh
giác -- tức là nên suy tư rằng cái chết sẽ đến, và phải đến một lúc nào, sớm
hay muộn. Ðiều nầy không có nghĩa là người Phật tử quá bi quan, nhìn đời quá
đen tối. Chết là một thực tại, và ta phải đối phó với thực tại nầy -- Phật Giáo
là tôn giáo của lý trí. Phật Giáo rèn luyện hàng tín đồ đương đầu với những
biến cố xảy ra trong cuộc sống, dầu thực tại phũ phàng khắc nghiệt như thế nào.
Vị Giáo Chủ sáng lập đạo Sikh, Guru Nanak có nói, "Thế gian sợ chết. Ðối
với tôi, chết là một phước báo, nó đem lại tình trạng an lành." Ðiều nầy
chứng tỏ rằng các bậc vĩ nhân và hạng người thánh thiện không sợ mà sẵn sàng
chấp chận cái chết. Bao nhiêu anh hùng đã hy sinh mạng sống của mình để tạo an
lành cho kẻ khác. Tên tuổi của các Ngài còn ghi lại trong lịch sử nhân loại
bằng những chữ bằng vàng để truyền lại hậu thế.
Chết là Ðiều Không
Thể Tránh
Quả thật mâu thuẫn!
mặc dầu chúng ta thường thấy cái chết thản nhiên hoàn thành nhiệm vụ của nó,
mang đi nhiều cuộc sống, nhưng ít khi ta nghĩ đến một ngày nào, sớm hay muộn,
chính mình cũng sẽ là nạn nhân của nó. Với tâm luyến ái mạnh mẽ bám chặt vào
đời sống chúng ta không nghĩ rằng chết là diễn biến tuyệt đối chắc chắn trước
sau gì cũng phải đến mà cho rằng những tư tưởng như thế là suy nhược, mặc dầu
đó là thực tế. Chúng ta thích đẩy lùi những ý nghĩ đó ra phía sau, càng xa càng
tốt, chúng ta tự kỷ ám thị rằng chết là một hiện tượng xa vời, là cái gì không
nên nghĩ đến. Phải có đủ can đảm để đối diện với sự việc. Ta phải sẵn sàng để
đương đầu với sự thật khắc nghiệt phũ phàng. Chết là một diễn biến xác thật.
Nếu thấu hiểu và trị giá đúng mức những diễn biến tương tợ, và xác định rằng
chết là điều không thể tránh; cái chết phải được chấp nhận là biến cố bình
thường không có gì đáng kinh sợ, ta phải có đủ khả năng đối phó một cách trầm
tĩnh, can đảm và tự tin khi nó đến.
Bổn Phận và Trách Nhiệm Của Ta
Với sự hiểu biết
chắc chắn rằng sau cùng cái chết sẽ đến với ta một ngày nào, với thái độ trầm
tĩnh, can đảm và tự tin, chúng ta phải quyết định chuyển giao bổn phận và trách
nhiệm của mình cho người thân kế cận. Không nên triển hoãn trách nhiệm và bổn
phận. Chớ hẹn lại ngày hôm sau những gì có thể làm được hôm nay. Ta phải xử
dụng thì giờ cho đúng mức và trải qua cuộc sống một cách hữu ích. Bổn phận của
chúng ta đối với vợ, hay chồng, và với con cái, đáng phải được xem là ưu tiên
và phải được thi hành đúng lúc. Phải nghĩ đến di chúc, không nên chờ đến giây
phút cuối cùng. Vào lúc ấy, vì sơ xuất lãng quên, ta có thể tạo tình trạng tinh
thần quá căng thẳng không cần thiết, gây nên những khó khăn, những vấn đề cho
gia đình. Thần Chết có thể gọi ta bất cứ lúc nào, không kể là ai, không luận
giờ phút nào. Nếu muốn chuẩn bị sẵn sàng cho kiếp sống tới. Ta phải có đủ can
đảm để đương đầu diễn biến cuối cùng nầy với triển vọng tốt đẹp và lòng tự tin
vững chắc
Ái Dục và Vô Minh
Có thể khắc phục
cái chết không? Câu trả lời là -- Có thể!
Sở dĩ có chết là
bởi vì có sanh. Tình trạng lặp đi lặp lại nầy được gọi là vòng luân hồi
saÑsàra. Nếu vòng quanh những kiếp sinh tồn nầy phải ngưng lại, chấm dứt, nó
chỉ có thể bị cắt đứt ở giai đoạn Vô Minh (Avijjà) và ái Dục (Tanhà) -- Ðó là
hai cội rễ của vòng luân hồi mà ta phải tận diệt. Như vậy, nếu tận diệt ái Dục
và Vô Minh ắt ta chế ngự "sanh", chinh phục "tử", và vượt
ra khỏi vòng luân hồi, thành tựu Niết Bàn.
Ta phải cố gắng
hiểu biết rằng tất cả mọi sự vật trong vũ trụ nầy đều không ngừng biến chuyển,
không có gì chắc chắn vĩnh tồn. Kiếp sống chỉ là ảo kiến, một giấc mơ. Khi phân
tách sự vật dầu theo phương cách khoa học hay theo triết học, cuối cùng ta
không thấy gì khác hơn là hư không.
"Sợ chết không khác nào ta sợ cổi
ra một cái áo cũ". (Gandhi)
Mất đi một người mà
ta thương yêu quý mến quả thật khó chịu đựng, đó là bởi vì ta trìu mến, luyến
ái. Ðiều nầy xảy đến bà Visàkhà, vị tín nữ nổi tiếng giàu tâm đạo nhiệt thành
trong thời Ðức Phật. Khi mất một người cháu thân yêu bà đến yết kiến Ðức Bổn Sư
mong tìm được an ủi cơn sầu.
"Nầy Visàkhà,
con muốn có con cháu đông đảo như số trẻ con trong thị xả nầy không? Ðức Phật
hỏi. "Bạch Ngài quả thật con muốn được như vậy."
"Vậy, nầy Visàkhà, trong trường hợp
ấy con sẽ khóc cho tất cả những trẻ con khi nó chết không? Nầy Visàkhà, người có
hằng trăm vật để thương mến yêu chuộng sẽ có hằng trăm ưu phiền để khóc. Người
không có gì để thương yêu, sẽ không có ưu phiền để khóc."Khi nới rộng tâm
luyến ái ta cũng phải chuẩn bị sẵn sàng để trả cái giá của phiền não khi phân
tán chia ly. Tình thương bám vào đời sống đôi khi phát triển thành sự lo sợ yếu
hèn suy nhược về cái chết. Ta sẽ không dám mạo hiểm, dầu mạo hiểm cho điều
lành, trong lẽ phải, mạo hiểm để đạt đến mục tiêu chân chánh. Ta sống trong
tình trạng lo âu, sợ một cơn bệnh hay một tai nạn sẽ chấm dứt cuộc đời hình như
vô cùng quý báu của ta. Nhận thức rằng chết là điều chắc chắn phải đến, ta hy
vọng và nguyện cầu cho "linh hồn" mình sẽ tiếp tục mãi mãi sống trên
một cảnh trời, an toàn và bền vững. Những tín ngưỡng như thế ấy căn cứ trên lòng
tham, muốn một kiếp sống bền bĩ lâu dài.
Tất cả mọi người
và mỗi cá nhân phải tự cảnh giác và sáng suốt hay biết vai trò của hiện tượng
chết trong số phận mình. Dầu vua chúa hay thường dân, giàu hay nghèo, mạnh hay
yếu, nơi an nghĩ cuối cùng của cơ thể vật chất nầy vẫn là trong một quan tài
nằm dưới ba tấc đất, hoặc trong một cái lọ, hay thả trôi theo dòng nước.
Tất cả mọi người
đều phải đối phó và chia xẻ với nhau một số phận. Vì không hiểu biết bản chất
thật sự của đời sống, ta thường khóc than sầu thảm và kêu la rên siết. Một khi
đã nhận thức bản chất thật sự của đời sống ta có thể mạnh dạn đối diện với đặc
tướng vô thường của vạn hữu và mong tìm giải thoát.
Cho đến khi, và
ngoại trừ khi thành tựu giải thoát ra khỏi thế gian những sự vật được cấu tạo,
ta còn phải đối diện với cái chết, trở đi trở lại. Và trên phương diện nầy cũng
vậy, vai trò của sự chết rất là rõ ràng. Nếu ai cảm thấy rằng chết là điều
không thể chịu đựng, hãy cố gắng chuyên cần khắc phục vòng quanh sanh và tử.
Suy Niệm Về Sự Chết
Tại sao phải suy tư
về sự chết? Tại sao phải quán niệm hiện tượng nầy?
Chẳng những Ðức
Phật khuyến khích ta thảo luận về cái chết mà Ngài còn đôn đốc khích lệ ta nên
quán niệm, thường xuyên suy tư về sự chết. Cái gì được sanh ra phải chết. Tâm
và thân, sanh khởi vào lúc được thọ thai, phát triển, trưởng thành và lớn đủ kỳ
hạn. Nói cách khác, nó đi theo tiến trình già nua. Trước hết chúng ta gọi đó là
trưởng thành, rồi già nua, nhưng chỉ có một tiến trình đi lần đến thành thục,
nở nang, và tiến triển dần đến cái chết không thể tránh.
Ngày nay theo sổ
kiểm kê dân số thế giới, trung bình có khoảng 200,000 người chết mỗi ngày. Tính
ra, khoảng 70 triệu người chết trong một năm.
Chúng ta không
quen suy nghĩ về sự chết hoặc nữa hoà huởn, không nghĩ đến cái chết. Thông
thường chúng ta cố tránh nó và sống như không bao giờ sẽ chết. Ngày nào còn sợ
phải chết ta không thể sống một cách đầy đủ và tốt đẹp nhất. Vậy, một trong
những lý do căn bản nhất để suy niệm về sự chết, để ý thức trọn vẹn thực tại
nầy, là phải khắc phục nổi lo sợ. Suy niệm về sự chết không phải để làm cho ta
xuống tinh thần hay giảm suy tâm trí; mà nhằm mục tiêu giúp ta thoát ra khỏi
mọi tình trạng lo âu sợ sệt.Lý do thứ nhì để suy tư về sự chết là nó sẽ chuyển
biến lối sống và thái độ của chúng ta đối với cuộc đời. Giá trị của đời sống
đối với ta sẽ đổi thay mau chóng một khi ta ngưng quan niệm cuộc sống như sẽ
mãi mãi trường tồn, và ta sẽ bắt đầu sống theo một đường lối khác.
Lý do thứ ba là nó
sẽ phát triển khả năng nhìn thẳng và đối diện cái chết theo đường lối chân
chánh và thanh bình an lạc.
Quán niệm về sự chết đem lại ba điều lợi
ích:
* làm giảm bớt lo
sợ;
* đem lại phẩm chất mới để bồi bổ đời sống của chúng ta, giúp chúng ta trải qua
cuộc sống có giá trị thích ứng; và
* giúp chúng ta từ giả cuộc đời một cách trang nghiêm, chân chánh và xứng đáng.
Còn cần gì thêm nữa?
Phật Giáo khuyến
khích ta quán niệm như sau:
* bản chất thiên
nhiên của tôi là phải chuyển dần đến tuổi già, tôi chưa vượt thoát ra khỏi
trạng thái phải già nua;
* bản chất thiên nhiên
của tôi là phải bệnh hoạn, tôi chưa vượt thoát ra khỏi tình trạng phải bệnh
hoạn;
* tôi phải gánh chịu
hậu quả của nghiệp mà chính tôi đã tạo và không thể lẫn thoát ra khỏi nghiệp
báo;
* bản chất thiên
nhiên của tôi là phải chết, tôi chưa vượt thoát ra khỏi hoàn cảnh phải chết; và
* Tất cả những gì
của tôi, yêu thương quý chuộng và vừa lòng, sẽ đổi thay chuyển biến và trở
thành cái gì khác, tất cả đều sẽ lìa tôi.
Khi chúng ta quán
niệm thực tại nầy một cách thanh thản an bình và thấm nhuần nó vào tâm, sẽ phát
sanh đến ta một năng lực hậu quả dũng mãnh, chế ngự nỗi lo sợ về tuổi già, bệnh
hoạn, chết chóc và chia ly. Nó không làm cho chúng ta trở nên hèn yếu suy nhược
mà giúp chúng ta trút đi gánh nặng lo âu và sợ sệt. Ðó là lý do tại sao chúng
ta quán niệm cái chết: không phải vì chúng ta nóng lòng mong đợi cái chết, mà
vì chúng ta muốn sống và chết không lo sợ.
Chết Là Một Phần Của Ðời Sống
Cái chết, đến với
tất cả mọi người, là một phần của đời sống trong vòng quanh những kiếp sống.
Vài người chết vào lứa tuổi thanh xuân, người khác khi niên cao tuổi lớn, nhưng
tất cả mọi người đều phải chết, không thể tránh. Không ai mời mọc chúng ta đến,
và cũng tự mình chúng ta ra đi. Chắc chắn là tôi sẽ phải chết -- tất cả mọi
người cũng vậy, đều phải lìa đời.
Cây cối, hình sắc,
chúng sanh, tất cả đều phải bước chân vào cùng một con đường ấy. Mùa thu sẽ sớm
sủa đến, lá sẽ rơi rụng, lìa cây. Chúng ta không khóc, vì đó là bản chất của
thiên nhiên, lá phải rơi rụng, lìa cành vào cuối mùa. Con người cũng trải qua
cùng một đoạn đường, cùng một kinh nghiệm ấy.
Thông thường,
những người có theo một tôn giáo ít lo sợ hơn người tích cực sống theo vật
chất, vì con người vật chất chỉ đặc biệt chú trọng đến một điều trong đời sống
là thỏa mãn nhục dục ngũ trần.
Nhưng trong cách
nhìn đời của người Phật tử, chết không phải là điểm chấm dứt mà sanh cũng không
phải là điểm khởi đầu của cuộc sống. Trong thực tế, chết là điểm khởi đầu và
ngược lại sanh là điểm chấm dứt của đời sống. Nó chỉ là một phần của toàn thể
tiến trình, tiến trình của vòng quanh sanh và tử, rồi tái sanh và chết trở lại.
Nếu có một ít hiểu biết về tiến trình diễn tiến không ngừng nầy, cái chết không
còn khả năng tạo những cơn khủng hoảng kinh hoàng hèn yếu suy nhược nữa, bởi vì
dầu sao đây không phải là điểm tận cùng. Chỉ là điểm chấm dứt của một giai đoạn;
chỉ là một chu kỳ, dài theo con đường và rồi con đường tiếp tục trải dài vô
cùng tận với những chu kỳ khác. Lá lìa cành, rơi rụng, nhưng đó không phải là
điểm chấm dứt. Lá trở về với đất và trở thành phân bón để dưỡng nuôi cội rễ,
qua năm tới cây sẽ trổ lá mới xanh tươi. Ta có thể nhìn cuộc sống của con người
cùng một thế ấy. Giờ phút lâm chung của một người tạo duyên cho kiếp sống mới.
Sự hiểu biết nguyên tắc căn bản nầy giúp ta đặt xuống gánh nặng lo âu và kinh
sợ.
Sống Giác Tỉnh
Chúng ta sống theo
nhiều lối điên cuồng đến độ không hay biết rằng mình đang hoang phí thì giờ.
Ngày hôm nay ta phung phí bao nhiêu thì giờ để lo sợ cho năm tới, cho hai mươi
năm tới, mãi nghĩ suy cho tương lai mà không còn thì giờ để sống đầy đủ cho
chính ngày hôm nay. Và giá trị của chúng ta trong đời sống sẽ đổi thay. Cái gì
là quan trọng trong đời? Cái gì làm động cơ thúc đẩy ta? Yếu tố nào đưa đẩy ta
trong đời sống? Nếu ta thật sự suy niệm về sự chết, công trình suy tư nầy sẽ
giúp ta nhìn lại giá trị của mình. Có bao nhiêu tiền của? Ðiều đó không quan
trọng vì ta không thể đem nó theo. Chí đến cái thân nầy của ta, ta cũng phải bỏ
lại phía sau cho người khác tùy ý muốn làm gì thì làm; nó chỉ là một đống cặn
bã dư thừa bỏ lại. Khi xa lìa thế gian nầy ta không thể đem theo cái thân quý
báu thương yêu này. Phẩm chất của đời sống quan trọng hơn những tài sản sự
nghiệp vật chất được thâu thập và tích trữ. Phẩm chất cơ bản của đời sống là
phẩm chất của tâm. Chúng ta sống như thế nào ngày hôm nay có thể quan trọng hơn
nhiều những sở hữu bên ngoài mà ta có. Chính cái chết và phẩm chất của tâm sẽ
tạo duyên cho kiếp tái sanh sắp đến. Ðó là sở hữu duy nhất mà ta có thể đem
theo. Ðó là di sản duy nhất mà ta không bỏ lại phía sau cho ai khác.
Tôi là chủ nhân
của cái nghiệp của tôi, là thừa kế của cái nghiệp của tôi. Ðược sanh ra từ bào
thai của cái nghiệp của tôi, tôi là họ hàng thân thuộc của cái nghiệp của tôi,
ẩn náu trong và nâng đỡ bởi cái nghiệp của tôi. Bất luận nghiệp nào mà tôi sẽ
tạo, dầu thiện hay bất thiện, tôi sẽ là thừa kế lãnh trọn di sản ấy.
Tất cả những gì sẽ
theo ta sẽ là những phẩm chất mà ta đã phát triển bên trong mình, những đức
tánh của tâm, những phẩm hạnh tinh thần, và những tính chất tốt hay xấu. Ðó là
tất cả những gì ta sẽ thừa hưởng. Ðó là những điều kiện sẽ quyết định sự tái
sanh và kiếp sống tương lai của ta. Ngày nay ta có thể an hưởng bạc triệu đã
thâu thập, nhưng còn quan trọng hơn nhiều là một kiếp sống thanh bình an lạc và
công trình bắt đầu xây dựng những phẩm hạnh đạo đức thanh cao. Nó sẽ có ảnh
hưởng rất tốt đẹp đến lối sống của ta và những giá trị mà ta phát triển. Vấn đề
không phải là thành công; vấn đề là ta đã thành công bằng cách nào.
Chết Một Cách Tốt Ðẹp
Ðã xét suy cặn kẽ
tất cả những điều trên, nếu ta không hoảng hốt xem cái chết là một diễn biến
báo nguy mà thấy đó chỉ thật sự là một kinh nghiệm, ta có thể tự tin đối phó
với nó. Có thể làm rất nhiều chuyện để tạo duyên cho một cái chết tốt đẹp. Nếu
có một cuộc sống tốt, cái chết sẽ dễ dàng. Nhằm giúp tiến trình chết trôi chảy
dễ dàng ta nên nhấn mạnh nhiều về công phu phát triển đức tánh không sợ sệt.
Ðối với phần đông,
hơn gì hết, ta sợ đau đớn và sợ phải xa lìa người thân. Quả thật là đáng sợ.
Vào lúc lâm chung, những lời khuyến khích và an ủi để làm vững lòng là nhu cầu
khẩn thiết hơn tất cả. Trước tiên, cần phải làm cho mình vững lòng tự tin. Cơn
đau quả thật dữ dội và rất khó chịu đựng, nhưng rất may mắn là ngành y khoa
hiện đại rất tiến bộ, có thể làm giảm suy nỗi khổ mà con người phải chịu trước
khi qua đời.
Cơn đau không nhất
thiết là một đối tượng cần phải sợ. Sư (Ngài Sri Dhammananda) thường an ủi
người sắp chết -- người mang một chứng bệnh ngặt nghèo như ung thư chẳng hạn --
không nên quá sầu khổ vì đau, và sẽ có thuốc làm nhẹ bớt cơn đau. Hậu quả quan
trọng của những lời khuyên nầy là làm cho người bệnh an tâm ra đi một cách bình
thản.
Niềm lo sợ khác
của người sắp chết là phải xa lìa tài sản. Lẽ dĩ nhiên, nếu có suy niệm trước
về điểm nầy, vấn đề có thể giải quyết dễ dàng hơn nhiều. Ta biết rằng chính
tình trạng sum hợp đã hàm xúc ý nghĩa chia ly. Có hợp ắt có tan. Nếu người lâm
chung chưa từng tu tập thực hành loại suy niệm nầy, ta cần phải nhẹ nhàng
khuyên giải rằng những người thân còn lại như vợ, hay chồng, và con cái sẽ được
trông nôm chăm sóc đầy đủ. Người sắp chết cần phải được an tâm rằng mọi việc
đều suôn sẻ, bạn bè sẽ lo lắng giúp đỡ.
Cần phải cố gắng nhấn mạnh, khuyến khích
người sắp chết nên giữ tâm trầm tĩnh và thanh bình an lạc. Làm thế nào có thể
chết một cách tốt đẹp? Ðường lối của người Phật tử là tạo bầu không khí an lành
trong phòng người bệnh. Không nên kể lể khóc than. Những tiếng kêu la thảm
thiết có lợi ích gì cho con người đau khổ đang cần phải được yên ổn để an tâm
làm một việc rất quan trọng -- lìa đời. Cảnh trạng than van kêu khóc làm cho
người lâm chung rất khó mà ra đi một cách an lạc. Vào lúc bấy giờ những bạn bè
thân thuộc hiện diện nên có thái độ tỏ ra rằng mình sẽ trông chừng chăm sóc,
thương yêu, và sẵn lòng đóng góp làm một điều gì để nâng đỡ.
"Những biểu
tượng có tánh cách tôn giáo thật vô cùng hữu ích và rất hợp cảnh trong trường
hợp nầy. Nếu người lâm chung là Phật tử thì một pho tượng Phật nhỏ, sự hiện
diện của vài nhà sư đọc tụng kinh kệ và nói vài lời khuyên nhủ êm dịu sẽ giúp
rất nhiều cho người sắp chết ra đi an lành và trầm tĩnh. Ðó là những yếu tố
huyền diệu có thể đưa họ chuyển sang kiếp sống mới một cách tốt đẹp nhất."
(Ajahn Jagaro)
Cái Chết Thanh
Bình An Lạc
Mọi người đều hy
vọng, và hết lòng mong muốn được một cái chết thanh bình an lạc sau khi viên
mãn đảm đang bổn phận và trách nhiệm trong đời sống. Nhưng bao nhiêu người đã
thật sự chuẩn bị sẵn sàng cho diễn biến nầy? Bao nhiêu người đã chịu khó hoàn
thành trách nhiệm đối với gia đình, với người thân, với bạn bè, với quê hương
xứ sở, với tôn giáo mình và đối với số phận của chính mình? Những ai không làm
tròn bổn phận của mình thì rất khó mà chết một cách an lành.
Chúng ta phải học
lối khắc phục tình trạng sợ chết bằng cách nhận thức rằng chính các vị trời
cũng phải chết. Những ai đã để thời gian trôi qua một cách vô ích sẽ có nhiều
duyên cớ để than khóc khi kiếp sống của chính họ di chuyển dần đến mức cuối
cùng. Khi người ta thấy rằng kiếp sống của mình chỉ là một giọt nước trong dòng
sông không ngừng trôi chảy, họ sẽ vùng trổi dậy đóng góp phần nhỏ nhoi của mình
cho dòng đời rộng lớn bao la. Người có trí tuệ hiểu biết rằng để sống ta phải
gia công tự giải thoát bằng cách tránh làm những điều bất thiện, cố làm những
việc thiện, và thanh lọc tâm. Người thông hiểu Giáo Huấn của Ðức Phật không bao
giờ sợ chết. Chết không phải là nguyên nhân để sầu não. Nhưng nó quả thật đáng
lo nếu ta chết mà không làm điều gì cho chính mình và cho thế gian.
Tôi Chết Ngày Hôm Nay
David Morris là một
học giả Phật tử người Phương Tây đã qua đời lúc 85 tuổi thọ. Sớm sủa sau khi
ông chết người viết quyển sách nhỏ nầy (tức Ngài Sri Dhammananda) có nhận được
một bức thơ của ông (rõ ràng là ông đã viết bức thơ nầy và dặn chỉ nên gởi đi
sau khi ông chết). Thơ viết như sau:
"Sư sẽ lấy
làm hoan hỷ mà biết rằng tôi đã lìa đời ngày hôm nay. Sư sẽ có hai lý do để
vui. Trước tiên, Sư sẽ an lòng được biết rằng cơn đau khổ vì bệnh hoạn của tôi
sau cùng đến đây đã chấm dứt. Lý do thứ nhì là, từ khi quy y Tam Bảo và trở
thành Phật tử, tôi trong sạch hành trì ngũ giới với lòng tin tưởng nhiệt thành.
Như vậy Sư biết rằng tôi sẽ không thể tái sanh vào những cảnh khổ."
* * *
Ðời sống tựa hồ
như một giấc mơ. Chết là sự việc dĩ nhiên phải xảy diễn. Trong khi chuẩn bị để
sẵn sàng đối phó ta nên quyết định hoặc tiếp tục, hoặc chấm dứt vòng quanh sanh
tử để tự thoát ra khỏi mọi đau khổ. Ðó là mục tiêu của đời sống mà trí thông
minh của con người phải quan tâm đến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét