CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO
Mỗi người phải có một tôn giáo, nhất là
người quan tâm đến năng lực trí tuệ. Người không tuân theo những nguyên tắc đạo
lý trở nên nguy hiểm cho xã hội. Chắc chắn những nhà khoa học và tâm lý học
trong khi mở rộng chân trời trí thức, họ vẫn không thể cho chúng ta biết mục
đích cuộc đời, điều mà chỉ có tôn giáo có thể làm được.
Con
người phải chọn một tôn giáo hữu lý và có ý nghĩa theo nhận thức của mình mà
không lệ thuộc chỉ về niềm tin, truyền thống, tập tục và lý thuyết. Không ai có
quyền bắt người khác chấp nhận một tôn giáo. Không nên lợi dụng nghèò khổ, mù
chữ hay dùng những xúc cảm để quyến rũ người ta chấp nhận một tôn giáo. Lựa
chọn tôn giáo phải hoàn toàn tự do.
Con
người phải được hoàn toàn tự do lựa chọn tôn giáo tùy theo sự ưa thích và khả
năng trí thức của mình. Mù quáng theo một tôn giáo mà không có sự hiểu biết làm
mất giá trị tinh thần của tôn giáo đó và tín đồ cũng mất phẩm giá con người.
Con người có trí thông minh và ý thức phân biệt cái đúng và cái sai. Họ có thể
thích nghi theo hoàn cảnh. Vì thế họ nên chọn một tôn giáo phù hợp vói họ, một
tôn giáo đáp ứng trí thông minh con người. Họ phải được hướng dẫn thích hợp và
được quyền quyết định tự do mà không có sự ép buộc nào.
Con
Ðường Trung Ðạo
Tôn
giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thực và văn hóa tinh
thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư
hoàn toàn giác ngộ và từ bi. Tôn Giáo này cũng được gọi là "Trung-Ðạo, một
con đường chánh đáng của đời sống, một hệ thống triết lý-đạo đức, một tôn giáo
của tự do và lý trí. " Tôn giáo này dạy chúng ta ba điều chính: "Tránh
xa điều xấu, làm việc thiện và thanh tịnh tâm trí"
Thông
điệp này rất đơn giản, có ý nghĩa có thể thực thi được, nhưng ta chứng nghiệm
khó khăn lúc mang ra thực hành vì nhược điểm cố hữu của con người. Hạnh kiểm
của con người đóng một phần quan trọng nhất trong tôn giáo này. Vị Ðại Ðạo Sư
này có lần nói: "Giáo Lý của ta không phải là đến để tin suông, mà đến để
thấy và thực hành". Giáo lý ấy khuyến khích ta nghiên cứu kỹ lưỡng những
lời dạy, tự do phán xét để quyết định có nên chấp nhận hay không chấp nhận giáo
lý ấy. Không ai đòi hỏi ta đến để theo tôn giáo này mà trước nhất không có sự
hiểu biết vể giáo lý ấy.
Những
nghi thức và nghi lễ phù phiếm không có chân giá trị và nghĩa lý. Không có niềm
tin và thực hành dị đoan hay một thuyết trong tôn giáo này. Mọi sự việc đều
phơi bày để tín đồ lựa chọn; các tín đồ hoàn toàn tự do nghiên cứu giáo lý, đặt
các câu hỏi bất cứ lúc nào còn nghi ngờ. Theo vị sáng lập ra tôn giáo này, ta
không nên tin tưởng vào bất cứ điều gì dù là điều đó do nhà hiền triết đưa ra
hay điều đó dã được nhiều người chấp thuận theo truyền thống mà ta nên sử dụng
hiểu biết thực tế hợp lý và trí thông minh của ta, chấp nhận điều đó chỉ khi
điều đó đem lợi ích khi mang thi hành.
Tôn
giáo này dạy con Ðường Bát Chánh Ðạo cao quý gồm có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy,
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh.
Con đường trung đạo duy nhất này đem lại cho mọi người một cuộc đời cao thượng
và an lạc.
Con
đường trung đạo không phải là con đường siêu hình mà cũng chẳng phải là con
đường theo nghi thức chủ nghĩa; không phải giáo điều mà cũng chẳng phải hoài
nghi; không phải đam mê lạc thú và cũng chẳng phải tự hành xác, không phải bất
diệt và cũng chẳng phải vĩnh hằng, không phải bi quan mà cũng chẳng phải lạc
quan, đó là con đường Giác Ngộ, một phương tiện để giải thoát khỏi khổ đau. Tôn
giáo này không đồng ý cho rằng con người ngày nay đau khổ do tội của tổ tông,
trái lại mỗi người mang lấy công và tội của chính mình. Chính con người là kẻ
duy nhất chịu trách nhiệm về đau khổ hay sung sướng của riêng mình.
Môt
người tu tập trung đạo ôn hòa này tìm thấy an lạc và hạnh phúc thực sự, có thể
sống môt cuộc đời đáng trọng không cần phải nô lệ cho cảm giác, đóng góp vào
hòa bình và hòa hợp của thế giới.
Gieo gì gặt nấy
Tôn
giáo này thỏa mãn hoài bão lớn lao và cao quý nhấtù của con người, dầu rằng có
thể bị căng thẳng và phải cố gắng nhiều trong đời sống hàng ngày, giúp mình
giao tiếp với người đồng loại, ngoài việc nêu ra mục đích cuộc đời. Tôn giáo
này không đem sợ hãi đến con người . "Làm thiện hưởng quả lành, làm ác
hưởng quả ác. Mỗi hành động đều có phản ứng của nó". Ðó là luật vũ trụ.
Tôn giáo này hoàn toàn phù hợp với những định luật này, vậy nên con người
"gieo gì gặt nấy". Những hành vi tội lỗi mà con người gây ra do tham,
sân và ngu muội. Những nhược điểm này chỉ có thể vượt qua qua bằng sự tự tu
tập. Lạc thú và khổ đau mà con người nếm trải trên thế giới này không phải do
ảnh hưởng bên ngoài mà do các hành động, lời nói và việc làm tốt xấu của chính
mình.Chính vì lý do đó, tôn giáo này nói: "Bạn là kết quả của những gì
bạn làm trong quá khứ, và sẽ là kếtá quả những gì bạn làm bây giờ" .
Theo
giáo lý này, nguyên nhân và hậu quả đóng một phần rất quan trọng trong đời sống
của chúng ta. Trong chu trình nguyên nhân và hậu quả, nguyên nhân đầu tiên
không nhận thức được vì nguyên nhân khi thành hậu quả thì đến luợt hậu quả lại
thành nguyên nhân.
Vị Ðại Ðạo Sư Vĩ Ðại
Người
sáng lập ra tôn giáo độc đáo này không phải là một huyền thoại mà là một Ðạo sư
Vĩ đại thực sự đã sống trên thế giới này. Ngài chẳng bao giờ cho mình là một
đấùng siêu nhân mà là một con người nhận thức được chân lý tuyệt đối, sự bí mật
của đời sống, nguyên nhân thực sự của khổ đau và hạnh phúc. Ngày nay, vị đạo sư
này không nhữửng được vinh danh bởi hàng trăm triệu tín đồ mà còn được vinh
danh danh bởi những người có văn hoá và trí thức trên khắp thế giới. Bậc Cao
Quý, người Giải Phóng, nhà Cải Cách Xã Hội, nhà Dân Chủ và Người Gây Cảm Hứng
đem lại cách sống cao hơn này qua đời vào lúc tám mươi tuổi để lại cho nhân
loại nền tảng đạo lý cao thượng dùng làm phuơng tiện để loại bỏ khổ đau, nghèo
khổ, căng thẳng, sợ hãi và lo lắng. Nền tảng đạo lý này giúp cho con người đạt
được hạnh phúc trong kiếp này và kiếp sau, dẫn đến sự giải thoát tối hậu khỏi
cái khổ đau của nhân loại.
Ðấng
Ðại Ðạo Sư này khuyên giải kẻ bất hạnh bằng những lời an ủi. Ngài giúp đỡ người
nghèo khổ bị bỏ rơi. Ngài biến đổi đời sống kẻ lừa dối thành cao thượng, làm
trong sạch đời sống đồi bại của kẻ phạm tội. Ngài khuyến khích kẻ yếu đuối,
đoàn kết kẻ chia rẽ, giác ngộ người ngu muội, khai sáng kẻ hoang mang, nâng đỡ
kẻ hạ tiện và đề cao người cao thượng. Người giàu lẫn người nghèo, thánh nhân
hay tội phạm đều yêu thích Ngài. Hoàng Ðế bạo ngược hay đức hạnh, các vương tôn
công tử nổi tiếng hay tâm thường, triệu phú hào phóng hay keo kiệt, bậc học giả
cao ngạo hay nhún nhường, kẻ cơ cực, người bần hàn, người quét đường bị áp bức,
kẻ giết người độc ác, gái giang hồ bị miệt thị- tất cả đều được lợi lạc từ
những lời dạy từ bi và trí tuệ của Ngài để sống một cuộc đời an lành và cao
thượng.
Tấm
gương cao thượng của Ngài là suối nguồn cảm hứng cho tất cả. Vẻ mặt thanh thoát
và an lạc đương nhiên là cảnh tượng làm dịu hiền những con mắt lo âu của con
người. Thông điệp hòa bình và khoan dung của Ngài được tất cả mọi người tán
thưởng với niềm vui không sao tả xiết, và là một lợi lạc bất diệt cho bất cứ ai
có duyên được nghe và thực hành. Ý chí sắt đá, trí tuệ sâu xa, tình thương bao
la, từ bi không biên giới, phục vụ vị tha, sự từ bỏ (trần tục) lịch sử, thanh
tịnh hoàn toàn, nhân phẩm hấp dẫn, phương pháp gương mẫu sử dụng trong việc
tiến dẫn giáo lý và sự thành công rốt ráo của Ngài - Tất cả những yều tố ấy gây
cảm hứng cho một phần năm dân số trên thế giới ngày nay hoan nghênh vị đạo sư
này và vinh danh Ngài như bậc giáo chủ tối thượng.
Vị Ðạo
sư cao quý này hy sinh lạc thú trần tục vì nhân loại khổ đau để tìm ra Chân Lý
chỉ con đường giải thoát khỏi khổ đau. Ngài đến thăm các người nghèo trong khi
Vua và các đại thần đến thăm Ngài. Sau khi giác ngộ, trong bốn mươi lăm năm
Ngài đã dành cả cuộc đời Ngài để giác ngộ và hướng dẫn chúng sanh.
Vị Ðại
Ðạo sư này không sợ một ai và cũng chẳng làm cho một ai sợ Ngài. Ðó là một
trong những nguyên tắc phải trau dồi trong cái thế giới của chúng ta đang bị
rách nát vì chiến tranh, nơi mà cái quý giá nhất- mạng sống- bị cúng hiến tại
bàn thờ của sức mạnh thú tính, nơi mà vũ khí tạo sợ hãi, căng thẳng và sân hận.
Ngài là
một nhà khoa học toàn bích trong lãnh vực đời sống. Ngài là một nhà tâm lý toàn
hảo có thể phân tách bản chất thực sự của tâm trí - nhiều đến nỗi giáo lý của
Ngài được trân trọng là một tôn giáo khoa học duy nhất.
Với những
nhà triết lý vĩ đại và các nhà tư tưởng vô tư, Ngài là vị thầy hiểu được hoàn
cảnh trần thế trong bối cảnh đúng của nó. Với những nhà luân lý học, Ngài có
một quy tắc tột bậc về kỷ luật và chính Ngài tượng trung cho sự toàn bích.
'Ngài là tấm gương mẫu mực về tất cả những đức hạnh mà Ngài thuyết giảng' Với
những nhà duy lý, Ngài là người phóng khoáng nhất, môt vị thầy đạo lý cảm nhận
được những vấn đề phiền toái của loài người. Với những nhà tự do tư tưởng, Ngài
là vị đạo sư tôn giáo, khuyên khích người ta tự do suy nghĩ không ỷ lại vào các
tín điều tôn giáo. Với các người theo chủ thuyết không thể biết, Ngài là một
người toàn thiện, hiểu biết và khôn ngoan.
Chắc
chắn Ngài là vị thầy có sức thuyết phục nhất trong tất cả các đạo sư tôn giáo.
Ngài không bao giờ sử dụng cưỡng bách hay đe dọa làm phương tiện để người ta
theo đạo Ngài. Ngài đã tiến dẫn đời sống tôn giáo cho con người muốn sống đạo
lý thậm chí không cần phải bám níu vào nhãn hiệu tôn giáo.
Ngài là
người phục vụ nhân loại khiêm nhường, không sao xuyến bởi khen hay chê, và
không nao núng cả đến khi bị bệnh nặng nhất.
Hòa
Bình, Hạnh Phúc và Giải Thoát
Vị Ðại
Ðạo Sư này đã chỉ con đường đi tới hòa bình, hạnh phúc và giải thoát. Ðường lối
dạy của Ngài rất phóng khoáng, hữu lý, khoa học, có thể hiểu được, dẫn đến giác
ngộ.
Ngày
nay thông điệp hòa bình của vị Thầy Vĩ Ðại Hoàn Vũ này cần thiết hơn bao giờ
hết nhất là ở thời điểm con người bị đầu độc bởi sân si, tham lam, ganh ghét,
tự phụ và ham muốn thống trị thế giới.
Vị Ðạo
sư này sanh ra trên thế giới này để phá tan cái tối tăm của ngu muội và cứu thế
giới khỏi những điều bất hạnh. Khắp trên thế giới nhiềâu người sống không niềm
tin, không tu tập môt hình thức tôn giáo nào. Tuy nhiên nếu họ chịu khó một
chút nghiên cứu và hiểu Vị Ðại Ðạo Sư này đã dạy gì, nghi ngờ của họ sẽ bị xua
tan, và sẽ nhận thấy tôn giáo này đóng góp hữu hiệu nhất vào hạnh phúc của con
người.
Tin hay
không tin nơi Ngài, giáo lý của Ngài vẫn ảnh hưởng sâu xa đến tất cả mọi người.
Thông Ðiệp của Ngài gửi cho thế giới, không bạo lực, không một giọt máu đổ dưới
danh hiệu của Ngài. Ðây lòa một tư liệu phi thường trong lịch sử thế giới có
thể được in lại bằng chữ vàng. Giáo lý này soi sáng con đường mà nhân loại phải
vượt qua một thế giới bất toại nguyện đến một thế giới mới sáng ngời, thương
yêu, hòa bình, hạnh phúc và mãn nguyện.
Giáo lý
có tuổi 25 thế kỷ của vị Ðạo sư vĩ đại này đủ mạnh để đối đầu với bất cứ thử
thách nào không cần phải đảo ngược hay cần đến sự giải thích mới về học thuyết
nguyên thủy của nó. Giáo lý này có thể được chấp thuận mà không sợ hãi mâu
thuẫn với khám phá và những thành quả khoa học hiện đại.
Giáo lý
này coi đức hạnh là một trong những điều kiện tiên quyết cần thiết để đạt giải
thoát. Một điều kiện tiên quyết khác là trí tuệ. Ðức hạnh và trí tuệ được ví
như mắt và chân của môt người. Ðức hạnh giống như chiếc xe chở con người đến
cửa giải thoát, nhưng chìa khóa thực sự để mở cửa là trí tuệ.
Hạnh
Phúc Thiên Ðường
Những
tín đồ của tôn giáo này không tự coi mình như những chúng sanh duy nhất được
chọn để đạt h?nh phúc thiên đường. Họ tin rằng chính con người tạo địa ngục hay
thiên đường tùy thuộc vào cuộc sống của mình và đau khổ tại địa ngục hay đạt
hạnh phúc thiên đường có thể chứng nghiệm ngay trong đời này chứ không phải
kiếp sau như ta thường tin tưởng. Ðạo sư của tôn giáo này không bao giờ trình
bày giáo lý bằng cách đe dọa lửa địa ngục hay đem hạnh phúc thiên đường ra để
cám dỗ mà bằng cách nói lên sự thực. Theo giáo lý này, bất cứ ai cũng có thể
vui hưởng hạnh phúc thiên đường miễn là người ấy sống một cuộc đời chính đáng.
Thiên đường không phải dành riêng hay độc quyền của một giáo phái hay môt cộng
đồng tôn giáo đặc biệt nào. Thiên đường mở cho tất cả mọi người - bất cứ ai
sống một cuộc đời cao thượng.
Vị tha,
kiên nhẫn và hiểu biết là những đức hạnh đáng giá gìn giũ bởi những tín đồ tôn
giáo này. Từ ái, bi mẫn và thông cảm với người khác không giới hạn với con
người mà còn mở rộng đến tất cả chúng sanh - vì phá hoại đời sống dù là người
hay vật, cũng ác độc và bất công, và đi ngược lại với giáo lý của tôn giáo này.
Tôn
giáo này cũng khuyên các tín đồ nên kính trọng quan điểm của người khác để dẫn
đến một đời sống hòa hợp.
Lối Sống
Tôn
giáo này rõ ràng, hợp lý, trả lời hoàn toàn tất cả những khía cạnh quan trọng
và các câu hỏi về đời sống của chúng ta. Tôn giáo này cũng cung cấp một nền
móng vững chắc giúp nhân loại tiến tới một lối sống tích cực và tốt đẹp hơn.
Tôn
giáo này không chia nhân loại ra thành nhóm, nhóm đươc "Cứu" và nhóm
bị "Ðọa" nhưng với tư cách là môt tôn giáo văn minh và hiểu biết, nó
dạy chúng ta làm sao thuần hóa kẻ dữ và giúp người được thuần hóa tốt đẹp thêm.
Tín đồ
của tôn giáo này không miệt mài vào cầu nguyện van vái hay xin can thiệp. Họ
tin vào tầm quan trọng trong sự hành trì của chính mình và trong hiệu quả của
thiền định dẫn đến tự thắng, tự kiềm chế, tự thanh tịnh, giải thoát và giác ngộ
vì thiền định là thuốc bổ cho cả tâm lẫn trí.
Con
người có thể hun đúc đời sống của mình
Tôn
giáo này cho rằng tâm là tất cả sức mạnh - là người sáng tạo và là kẻ hủy diệt
con người, và cũng là kiến trúc sư cho số phận con người. Cho nên, con người có
thể hun đúc, uốn nắn bất cứ gì nếu biết cách phát triển và sử dụng tâm đúng
cách.
Tóm lại
tôn giáo này là một ngọn hải đăng tuyệt vời hướng dẫn nhân loại đến hòa bình,
niềm vui và hạnh phúc bất diệt. Sự thực, thế giới ngày nay bị ảnh hưởng bởi kỳ
thị chủng tộc, chính trị, tôn giáo, hiểu nhầm về lý tưởng và trong cộng đồng.
Muốn giải quyết các khó khăn phức tạp này, người ta phải vận động tinh thần độ
lượng và vị tha lẫn nhau, và điều này có thể được trau dồi dưới sự hướng dẫn
của tôn giáo này khắc sâu sự cộng tác theo luân thường đạo lý vì lợi ích chung.
Con người phải đi đến nhận thức rằng sự phát triển tinh thần quan trọng hơn sự
đạt được phát triển vật chất cho hạnh phúc thực sự và phúc lợi của nhân loại.
Con người phải thực thi chân lý, phục vụ, nhân từ, và thương yêu nếu muốn thế
giới này trở thành nơi tốt đẹp hơn để sống.
Thực
Tại
Qua
giác ngộ vị đạo sư này tuyên bố:
* Ðức hạnh vĩ đại nhất đạt được
là do sự trau dồi tình thương yêu bao la;
* Hạnh phúc tối thượng là hạnh
phúc bắt nguồn từ tinh thần thanh thản;
* Chân lý tuyệt đối là chân lý
đạt được qua sự hiểu biết nguyên nhân sự đau khổ của loài người;
* Tôn giáo cao nhất là tôn giáo
dạy sự phát triển trí thức, luân lý và sự thanh tịnh tinh thần;
* Triết lý vĩ đại nhất là triết
lý đưa ra lối sống thực tiễn có thể thực thi được không cần phải ỷ lại vào lý
thuyết hay niềm tin không thôi.
Tôn
giáo này không cấm cản ai đọc hay học hỏi giáo lý của tôn giáo khác, và không
có chỗ cho cuồng tín. Kẻ cuồng tín không cho phép mình được hướng dẫn bởi lý
trí hay nguyên tắc quan sát và phân tích khoa học. Cho nên tín đồ tôn giáo này
là một người tự do có tâm trí cởi mở không lệ thuộc vào bất cứ ai để phát triển
tinh thần.
Nếu bạn
quan tâm học thêm một chút nữa về kỷ luật hay nền luân lý đạo đức và huấn luyện
tinh thần của tôn giáo này, bạn sẽ phải rút bỏ những hiểu lầm trước đây bạn có
về tôn giáo này. Ta không nên chỉ phán xét giá trị của một tôn giáo bằng cách
quan sát một số thực hành hướng dẫn sai lầm của một vài tín đồ; thay vì ta bao
giờ cũng nên cố gắng hiểu giáo lý căn bản của tôn giáo đó.
Trí thông minh con người
đáng ca ngợi
Thay vì
đặt để con người và số phận dưới sự kiểm soát độc đoán của một thế lực bên
ngoài chưa ai từng biết đến và bắt con người phải lệ thuộc vào sức mạnh tối cao
như vậy, tôn giáo này nâng cao địa vị của con người và thừa nhận con người đáng
được tán thưởng do trí thông minh. Trí thông minh dạy cho con người cách phát
triển tiềm năng ẩn tàng của mình.
Tôn
giáo này dạy chúng ta làm sao phuc vụ vị tha người khác. Tín đồ của tôn giáo
này tránh xa tội lỗi không phải vì sợ trả thù của những chúng sanh vô hình mà
vì hiểu rằng tội lỗi mang đau khổ cho chúng sanh.
Ðộng cơ
làm điều thiện để giúp đỡ người khác không phải là để làm vừa lòng một đấng tối
thượng nào hầu được tưởng thưởng, mà do các cảm nghĩ từ bi và giải thoát họ
khỏi khổ đau.
Nơi đây
trong tôn giáo này, bạn có thể tìm thấy phương cách để kiện toàn thiện tính và
trí tuệ không cần đến sự giúp đỡ của một sức mạnh bên ngoài nào. Bạn có thể đạt
được trí tuệ cao nhất qua sự hiểu biết mà không cần thiết qua "thiên
khải". Bạn có thể chuộc tội mà không cần đến sự phụ giúp của một đấng cứu
rỗi thay thếá. Bạn có thể đạt giải thoát ngay trong đời sống này bằng sự rèn
luyện đứng đắn khả năng của chính mình mà không phải chờ đợi đến kiếp sau.
Tôn
giáo này dạy con người không phải vì tôn giáo mà là tôn giáo vì con người. Có nghĩa
là không trở thành nô lệ cho bất cứ một tôn giáo nào, con người phải cố gắng sử
dụng tôn giáo cho sự cải thiện và giải thoát của mình.
Có thể được không?
* Không có lạc thú nhục dục đời
sống có thể chịu đựng được không?
* Không tin vào bất tử, con người
có luân lý không?
* Không có sự trợ giúp nào từ
tác nhân bên ngoài, con người có thể tiến tới đạo đức không?
* Không có nghi thức và nghi
lể, con người có thể sống một cuộc đời đạo hạnh được không?
* Không có lòng tin và đức tin
dễ cảm xúc con người có thể thực hành tôn giáo được không?
* Không đau đớn do tự hành xác
trong một số tôn giáo, con người có thể đạt được giải thoát không?
* Không tạo sợ hãi trong tâm,
con người có thể theo một số nguyên tắc đạo lý không?
* Không dùng sức mạnh và dọa
nạt người khác, chúng ta có thể tiến dẫn một tôn giáo thích đáng không?
* Không niềm tin dị đoan và tư
tưởng tín điều dưới danh nghĩa tôn giáo, có thể thuyết phục được đại chúng sống
một cuộc đời đạo hạnh không?
* Con người có thể cảm nhận và
gây cảm hứng tôn giáo mà không cần đến thần bí, huyền bí và xảo thuật của thầy
tu được không?
"Ðược"
vị khai sáng ra tôn giáo đã trả lời như vậy, những cứu cánh ấy có thể đạt được
bằng phục vụ, thanh tịnh, kỷ luật và trí tuệ.
Sự hiểu
biết về luật nhân quả như được giải thích trong tôn giáo này làm sáng tỏ và
giúp đỡ giải quyết vấn đề khổ đau của nhân loại, cái bí mật về số phận và tiền
định, và trên tất cả sự bất bình đẳng của nhân loại. Hiểu được luật này làm cho
con người được an ủi, hy vọng, tự tin và tinh thần can đảm.
Tôn
Giáo Hiện Ðại
Không
phải là một lý thuyết hay một tôn giáo chỉ để tin theo mà tôn giáo này là con
đường sống thực tiễn cao thượng. Ðó là một tôn giáo cổ nhất trong lịch sử đem
văn hóa và cải thiện đến cho nhân loại, hết sức tân tiến trên mọi lãnh vực, khi
so sánh với các thành quả hiện đại. Tôn giáo này khuyên ta không nên trở thành
nô lệ của bất cứ quyền năng bên ngoài nào mà nên phát trển tiềm năng ấy ẩn tàng
trong chính mình và sử dụng sự cố gắng trí thông minh của chính mình để giải
quyết các khó khăn của mình.
Tôn
giáo này có mọi phẩm chất cần thiết của một tôn giáo hữu lý thích hợp cho thế
giới hiện tại và tương lai. Tôn giáo này đúng mức, tiến bộ, và hợp lý. Bất cứ
ai nghiên cứu và hiểu được giá trị của tôn giáo ấy đều được lợi lạc trên thế
giới hiện đại này. Ðược thừa nhận còn khoa học hơn khoa học, tiến bộâ hơn tất
cả yếu tố tiến bộ trên lãnh vực tinh thần, tôn giáo này là một phương tiện rất
hữu hiệu dùng để duy trì hòa bình, hòa hợp và hiểu biết thế giới.
Không
Kỳ Thị
Ðó là
một tôn giáo, đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chống lại hệ thống dẳng cấp làm
thấp hèn con người và dạy bình đẳng cho nhân loại, cho cơ hội đồng đều phù hợp cho
tất cả mọi tầng lóp xã hội khác nhau. Ðó cũng là tôn giáo đầu tiên cho phụ nữ
tự do và khuyến khích họ học hỏi và thực hành tôn giáo, thứ tôn giáo đem lại
bình đẳng xã hội.
Ðấng
Ðại Ðạo Sư tuyên bố cánh cửa đi đến thành công và thịnh vượng mở cho tất cả mọi
người, trong mọi hoàn cảnh đời sống dù cao hay thấp, bậc thánh hay tội phạm,
những người quan tâm, tìm và mong cầu hoàn hảo. Ngài không bắt các tín đồ làm
nô lệ cho Ngài, cho Giáo Pháp của Ngài mà cho họ hoàn toàn tự do suy nghĩ và
điều tra nghiên cứu để có thể đạt được lòng tự tin.
Tôn
giáo này phân loại chúng sanh thành tâm và vật, cả hai đều ở trong trạng thái
luôn thay đổi, không bao giờ giữ nguyên trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Tâm và
vật sinh ra và mất đi, c? thế chu trình tiếp diễn. Cho nên không có gì thường
còn ở trên thế giới này hay tại nơi nào trong vũ trụ. Vì mọi sự vật hiện hữu ở
bất cứ nơi nào của vũ trụ đều chẳng là gì cả mà chỉ là sự hỗn hợp của yếu tố và
năng lượng, lẽ dĩ nhiên những vật đó một ngày nào đó sẽ tan rã và hình thái cấu
tạo của nó biến đi hoàn toàn. Tôn giáo này dạy chúng ta mọi vật do duyên sinh
mà thành thì phải chịu sự mâu thuẫn đối đãi do điều kiện vật chất và định luật
vũ trụ.
Những
nguyên tắc cần được tôn theo của tôn giáo này không phải là những Ðiều Răn.
Tuân theo những lời giáo huấn như không Giết, không Trộm Cắp, không Tà Dâm,
Không Nói Dối, và Không Dùng các chất say, tín đồ có thể tự minh thanh tịnh hóa
lấy mình và giúp đỡ người khác sống hòa bình.
-oo0oo-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét