NGHIỆP BÁO
"Tất cả chúng sanh đều có cái
nghiệp của mình." -- Trung A Hàm
Định luật nhân quả
trong lĩnh vực tinh thần đạo đức là Nghiệp Báo, Kamma [1].
Tái Sanh là hệ
luận tự nhiên của Nghiệp. Nghiệp Báo và Tái Sanh là hai giáo lý căn bản trong
đạo Phật có liên quan mật thiết với nhau.
Từ trước thời Đức
Phật, hai học thuyết Nghiệp Báo và Tái Sanh đã được truyền bá sâu rộng tại Ấn
Độ. Tuy nhiên, chính Đức Phật đã giải thích tận tường và trình bầy đầy đủ Giáo
Pháp cao siêu ấy, đến nay vẫn còn lưu truyền.
Vì sao có sự bất
đồng trong nhân loại?
Ta phải giải thích thế nào những chênh
lệch tựa hồ như bất công trong thế gian?
Tại sao có hạng
người sanh trưởng trong cung điện nguy nga, giàu sang vinh hiển, trí tuệ xuất
chúng, đạo hạnh thanh cao, thân hình tráng kiện, trong khí ấy có kẻ khác lại
phải chịu sống trong cảnh cùng đinh, cơ hàn khốn khổ? Tại sao người kia có tiền
của ức triệu mà người nọ lại thiếu trước hụt sau? Tại sao có người thông minh
tuyệt vời và có kẻ tối tăm ngu muội? Tại sao người nầy được sanh ra với bản
tánh hiền lương của các bậc thánh nhân, kẻ nọ lại sẵn nết hung dữ từ khi lọt
lòng mẹ? Tại sao có hạng thần đồng thông suốt nhiều thứ tiếng, có hạng thần
đồng về môn toán học, thần đồng về khoa hội họa, văn chương, âm nhạc v.v...?
Tại sao có những trẻ em sanh ra đã mù, điếc, câm, ngọng hoặc kỳ hình dị thể?
Tại sao có những trẻ em vừa mở mắt chào đời đã được hưởng mọi phước lành, và có
em lại bị xem như một tội khổ?
Có chăng những
nguyên nhân nhất định, tạo nên hoàn cảnh chênh lệch trong thế gian? Nếu không,
những trạng thái bất đồng kể trên hẳn là những sự kiện ngẫu nhiên sảy ra hoàn
toàn do sự may rủi.
Bậc trí tuệ không thể tin nơi sự may rủi
mù quáng và không chấp nhận lối giải thích bằng sự ngẫu nhiên.
Trong thế gian nầy
không có điều chi xảy đến cho người nào mà không do một hay nhiều nguyên nhân.
Quả vui, quả khổ của những người đang gặt hái đều trổ sanh do những nhân tốt
hay xấu đã tạo, hoặc trong kiếp hiện tại, hoặc trong những kiếp quá khứ. Nhưng
với lý trí phàm tục, với sự hiểu biết tùy thuộc nơi giác quan của nhục thể,
không dễ gì thấu triệt những nguyên nhân vô hình và phức tạp của guồng máy thế
gian. Ta chỉ thấy hiển hiện trước mắt cái quả đang trổ mà không thấy được tất
cả các nguyên nhân vi tế đã tạo điều kiện cho quả ấy phát sanh, vì nhân kia
không phải hoàn toàn được tạo nên trong kiếp hiện tại mà có thể được rải rác
gieo trồng từ vô lượng tiền kiếp.
Có chăng những bậc cao minh sáng suốt,
tiếp nhận được bằng tuệ giác những điều mà mắt thịt tai phàm không thể nghe
thấy? Phật Giáo xác nhận rằng có thể có.
Vài hệ thống tín
ngưỡng chủ trương rằng tất cả các sự khác biệt trong đời đều do một nguyên nhân
duy nhất, và nguyên nhân ấy là do sự quyết định tối cao của Đấng Tạo Hóa. Đức
Phật không nhìn nhận có một Đấng Tạo Hóa toàn tri, toàn năng, tạo ra càn khôn
vũ trụ.
Các nhà bác học
hiện đại giải thích thế nào sự chênh lệch của nhân loại?
Căn cứ trên sự cảm
nhận của giác quan, nhà khoa học cho rằng tình trạng bất đồng kia do những
nguyên nhân vật lý và hóa học hổn hợp, do truyền thống và do giới thân cận.
Nhà sinh lý học
trứ danh, ông Julien Huxley, có viết như sau:
"Mầm giống sơ khởi cấu tạo con
người là những đơn vị sinh lý gọi là "gene" (gene là những cực vi tế
bào trong tinh trùng do đó mầm giống của cha truyền sang con gọi là định luật
truyền thống).
Có những loại "gene" tạo ra
màu sắc cho cơ thể. Có loại chi phối bề cao, sức nặng. Có loại ảnh hưởng tới
khả năng sinh sản, tuổi thọ, và sức khỏe của con người. Cũng có loại
"gene" ảnh hưởng đến hình hài thể vóc. Phần lớn các đặc tánh di
truyền, nếu không phải là tất cả, đều do các đơn vị sinh lý "gene"
chi phối.
"Riêng về những đặc tính tinh thần
- phức tạp và tế nhị hơn - thật khó mà chứng minh một cách cụ thể. Mặc dầu có
những sự kiện hiển nhiên có sự di truyền thuộc về tinh thần, nhưng không có
hiện tượng nào xác nhận rằng những đặc điểm tinh thần từ ông bà cha mẹ truyền
xuống cho con cháu phải theo một thể thức nào giống như thể thức truyền thống
về xác thịt.
"Mọi truyền
thống, tinh thần và vật chất, bằng cách nầy hay cách khác, đều tùy thuộc nơi
tác động tương quan giữa các bẩm thụ "gene" mà mỗi người mang trong
mình từ lúc mới được thọ thai."
Ta phải nhìn nhận rằng tất cả các hiện
tượng lý-hóa mà nhà khoa học hiện đại nêu lên đã giải thích một phần vấn đề.
Tuy nhiên các hiện tượng lý-hóa ấy không thể là nguyên nhân duy nhất quyết định
sự khác biệt tế nhị giữa những cá nhân. Nếu thuyết truyền thống hoàn toàn là
đúng, nếu con cái nhất định phải giống cha mẹ, thì ta phải giải thích thế nào
trường hợp hai bé sanh đôi, thụ hưởng một thứ sanh khí, một thứ
"gene", được nuôi dưỡng in như nhau, tại sao bẩm tánh của mỗi em lại
khác? Trí tuệ và tánh nết lại càng khác biệt.
Truyền thống không đủ để giải thích chỗ
âm u sâu rộng của vấn đề chênh lệch trong đời. Đúng ra, thuyết nầy giải thích
những chỗ giống nhau nhiều hơn là chứng minh những điểm dị biệt. Hạt
"gene" cực kỳ vi tế - lối một phần ba chục triệu của một phân Anh
(1/30.000.000 inch) - chỉ giải thích được một phần vấn đề, phần vật chất. Đối
với sự chênh lệch tinh thần, trí tuệ đạo đức, vô cùng phức tạp và tế nhị hơn,
chúng ta vẫn còn cần nhiều tia sáng khác. Truyền thống không thể giải thích tại
sao có những đứa con hung dữ, sát nhân, trong một gia đình có tiếng là lương
thiện, và trái lại, có những trẻ con hiền từ, sanh trưởng trong một gia đình
hung ác. Thuyết truyền thống cũng không thể giải thích do đâu có những thần
đồng, những bậc vĩ nhân, những bậc Đại Giáo Chủ v.v...
Luận về thuyết truyền thống, Tiến sĩ Th.
Pascal viết như sau trong quyển Reincarnation":
"Quay về vai
trò của bẩm thụ "gene" trong vấn đề truyền thống, chúng ta lập lại
rằng bẩm thụ vật lý"gene" tự nó giải thích phần vật chất của con
người. Về khả năng trí thức và đạo hạnh, bẩm thụ "gene" không rọi
được tia sáng nào. Nếu bẩm thụ "gene" cấu tạo được trọn vẹn con
người, ta sẽ tìm thấy trong mọi người tất cả bẩm tánh của cha mẹ và không khi
nào có những tánh khác.
"Như vậy sẽ
không có những người con sát nhân trong gia đình lương thiện và cũng không có
những bậc hiền nhân sanh trưởng trong gia đình hung ác. Trong đời sống hằng
ngày ta có thể gặp hai đứa trẻ sinh đôi, cùng cha, cùng mẹ, cùng thừa hưởng một
bẩm thụ của cha mẹ, cùng được sanh ra trong những điều kiện như nhau, cùng
trưởng thành trong những điều kiện như nhau, cùng trưởng thành trong một giới
thân cận, thân hình, mày mặt thật giống nhau, những một đứa thì hiền lương, còn
một đứa thì hung ác tàn bạo. Ngoài ra, số trẻ thần đồng cũng khá nhiều và đủ
làm bối rối các học giả chủ trương thuyết truyền thống. Nếu đi ngược dòng thời
gian, phăng mãi lên trong gia phả các vị thần đồng, ta có thể tìm được chăng
những vị tổ tiên cũng thần đồng như vậy? Vậy, không phải tất cả bẩm tánh và trí
tuệ của con người đều do nơi cha mẹ, ông bà, cũng không truyền lại hết cho con.
Bằng chứng là trong hàng con cháu của Mozart, Beethoven và Dantes không có một
thần đồng hay một vĩ nhân nào, và trong phạm vi của các nhà duy-vật-học, chưa
có gì chứng minh được thuyết truyền thống một cách thiết thực.
"Về mặt thể xác, không phải tất cả
đặc điểm vật lý của cha mẹ đều được truyền hết cho con, trí tuệ và tính nết mỗi
người con một khác [2] và nhiều gia đình lương thiện lấy làm đau khổ mà sanh ra
những đứa con ngỗ nghịch bất lương."
Phật Giáo cũng nhìn nhận có phần ảnh
hưởng của sự truyền thống và của giới thân cận, nhưng cho rằng không đủ. Phật
Giáo thêm vào đấy định luật Nghiệp Báo (Kamma), tức là sự tổng hợp các hành
động khác trong quá khứ và hiện tại. Chính chúng ta phải lãnh phần trách nhiệm
về những hành động của chúng ta trong quá khứ và gặt hái hoàn cảnh an vui hay
đau khổ trong hiện tại. Chính ta tạo thiên đàng cho ta. Cũng chính ta tạo địa
ngục cho ta. Ta là người xây dựng tương lai của ta. Chính ta tạo cái mà người
thế gian gọi là Định Mệnh.
Nguyên Nhân của Sự Chênh Lệch
Thuở Đức Phật còn tại tiền, có chàng
thanh niên tên Sudha, thắc mắc trước trạng huống bất đồng giữa loài người, muốn
tìm chân lý, đến gần Ngài và bạch rằng:
"Bạch Đức Thế
Tôn, vì lý do nào và nguyên nhân nào trong đời có người yểu (appayuka) và có
người thọ (dighayuka), người bệnh hoạn (bavhabadha) và người khoẻ mạnh
(appabadha), người xấu xa (dubbanna) và người đẹp đẽ (vannavanta), có hạng
người làm gì cũng không ai làm theo, nói chi cũng không ai nghe (appesakka) và
hạng người có thế lực, làm gì cũng có người theo, nói chi cũng có người nghe
(mahesakka), có người nghèo khổ (appabhopga) và người giàu sang (mahabhoga), có
người sanh trưởng trong gia đình bần tiện (nicakulina) và có người dòng dõi cao
sang (uncakulina), có người dốt (duppanna) và có người trí tuệ (pannavanta)?
Đức Phật trả lời vắn tắt như thế nầy:
"Tất cả chúng sanh đều mang theo
cái Nghiệp (Kamma) của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người
chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác
nên mới có cảnh dị đồng giữa chúng sanh. [3]"
Rồi Đức Phật giải thích cho Subha nghe
từng trường hợp:
"Nếu người kia trọn đời chỉ biết
sát sanh, người thợ săn chẳng hạn, bàn tay luôn luôn đẩm máu, hằng ngày sống
trong sự giết chóc và gây thương tích không chút xót thương. Do tính hiếu sát
ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ là một người có mạng
"yểu".
"Nếu người
kia luôn luôn thận trọng, không hề xác phạm đến tính mạng của ai, sống xa gươm
đao, giáo mác và các loại khí giới, lấy lòng tứ ái đối với tất cả chúng sanh. Do
sự không sát sanh (Tâm Từ) ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ
trường " thọ".
"Nếu người kia độc ác, luôn luôn
tìm cách hại người, luôn luôn dùng đấm đá và gươm đao đối sử với mọi người. Do
nết hung dữ, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ ươn yếu bệnh hoạn.
"Nếu người kia không bao giờ làm
tổn thương ai khác. Do đức tánh hiền lương nhu hòa, nếu tái sanh trong cảnh
người, người ấy sẽ được mạnh khỏe.
"Nếu người kia thô lỗ, cộc cằn,
luôn luôn giận dữ, chưởi mắng, nguyền rủa kẻ khác. Do hậu quả của sự thô lỗ,
cộc cằn ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ xấu.
"Nếu người
kia thanh tao nhã nhặn, dầu ai có chưởi mắng thậm tệ cũng không hề oán giận và
tìm cách trả thù. Do hậu quả của phong thái thanh nhã ấy, nếu tái sanh trong
cảnh người, người ấy sẽ đẹp đẽ.
"Nếu người kia có tánh đố kỵ, thèm
thuồng, ham muốn lợi danh của kẻ khác, không biết tôn kính người đáng kính,
luôn luôn chứa chấp lòng ganh tỵ. Do hậu quả của tính tật đố ganh ấy, nếu tái
sanh trong cảnh người, sẽ là người có ảnh hưởng, nói gì không ai nghe, làm gì
không ai theo.
"Nếu người
kia không có tánh đố kỵ, không thèm ham muốn lợi danh của người khác, biết tôn
trọng người đáng kính, không chứa chấp lòng ganh tỵ. Do ảnh hưởng của tâm không
ganh tỵ ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là người có thế lực, nói gì cũng
có người nghe, làm gì cũng có người theo.
"Nếu người
kia không bao giờ biết bố thí vật gì. Do tánh keo kiết, bám níu vào tài sản sự
nghiệp của mình, nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là người nghèo nàn thiếu
thốn.
"Nếu người
kia giàu lòng quảng đại, tánh ưa bố thí. Do lòng quảng đại rộng rãi ấy, nếu tái
sanh trong cảnh người, sẽ là người giàu có dư dã.
"Nếu người
kia không biết phục thiện, tánh ưa kiêu hãnh, không tôn trọng người đáng kính.
Do tánh ngạo mạn và vô lễ ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là người đê
tiện thấp hèn.
"Nếu người
kia biết phục thiện, tánh không kiêu hãnh, biết tôn trọng người đáng kính. Do
đức tính biết phục thiện và có lễ độ ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là
người sang trọng quyền quý.
"Nếu người kia không chịu gần người
có tài đức để học hỏi điều hay lẽ phải và phân biệt chánh tà. Do sự kém học ấy,
nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là người dốt.
"Nếu người
kia cố công tìm đến người có tài đức để học hỏi. Do sự học hỏi chánh đáng ấy,
nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là người thông minh trí tuệ." [4]
Trên đường tái
sanh luân hồi, con người chịu ảnh hưởng của nghiệp quá khứ nhiều hơn truyền
thống.
Như trường hợp của Đức Phật. Ngài đã thọ
sanh nhờ tinh trùng, minh châu và bẩm thụ "gene" của cha mẹ cũng như
mọi chúng sanh. Nhưng về mặt thể chất cũng như về phương diện tinh thần, trong
quý tốc, từ tổ tiên mấy đời xuống đến Ngài, không ai có thể sánh với Ngài. Đức
Phật đã có lần dạy rằng Ngài không thuộc dòng dõi vua chúa mà thuộc dòng của
chư Phật, chắc chắn Đức Phật là bậc siêu nhiên. Ngài sanh ra với cái nghiệp phi
thường mà chính Ngài đã tạo nên từ vô lượng kiếp.
Theo kinh Lakkhana
Sutta [5], Đức Phật sanh ra với tướng mạo khác thường - 32 đặc điểm phi thường
- là do bao nhiêu công đức cao dày mà ngài đã tạo ra trong vô lượng kiếp quá
khứ. Kinh Lakkhana Sutta cũng giải thích rành mạch mỗi tướng tốt của Đức Phật,
tướng nào phát sanh do nhân nào.
Trường hợp hy hữu
của Đức Phật chứng tỏ rằng năng lực của Nghiệp chẳng những chi phối cơ thể mà
còn vượt lên, làm mất phần hiệu năng của tinh trùng, minh châu và bẩm thụ
"gene" của cha mẹ. Vì thế Ngài dạy rằng :
"Ta là kẻ
thừa hưởng những hành vi tạo tác của ta như một di sản từ quá khứ truyền
lại."
Đề cập đến sự khác biệt giữa chúng sanh,
sách Atthasalini ghi rằng:
"Do sự khác biệt giữa cái nghiệp
mỗi chúng sanh nên có trạng thái chênh lệch trong sự tái sanh. Người sanh ra
sang cả, kẻ thì đê hèn. Người sanh ra trong sự khinh khi nguyền rủa, kẻ thì
được tôn trọng kính vì. Người được hạnh phúc an vui từ lúc lọt lòng mẹ, kẻ lại
khổ sở khốn cùng.
"Do sự khác
biệt giữa cái nghiệp mỗi chúng sanh nên có sự khác nhau về hình dung, sắc diện:
người thì đẹp đễ, kẻ lại xấu xa, người cao, người thấp, kẻ thì tuấn tú phương
phi, người thì kỳ hình dị tướng.
"Do sự khác
biệt giữa cái nghiệp mỗi chúng sanh nên có trạng thái chênh lệch trong xã hội
như được, thua, danh thơm, tiếng xấu, được ca tụng hay bị khiển trách, hạnh
phúc hay đau khổ."
"Do nghiệp, thế
gian luân chuyển.
Do nghiệp, chúng sanh tồn tại.
Và cũng do nghiệp, mà chúng sanh vướng víu.
Liên kết với nhau như bánh xe,
cấu hợp, dính liền và quây tròn quanh cái trục.
"Do nghiệp, chúng sanh được vinh
hạnh tôn sùng.
Do nghiệp, chúng sanh chịu cảnh nô lệ tôi đòi,
Bị nạn độc tài đàn áp và đi đến chỗ bại vong .
Đã biết rằng nghiệp sanh quả
Tại sao vẫn tin rằng:
Trong đời nầy không có nghiệp báo?" [6]
Tóm tắt, theo Phật Giáo, những sự chênh
lệch về tinh thần, đạo đức, trí tuệ và bẩm tánh, một phần lớn đều tùy thuộc
hành động và khuynh hướng của chúng ta trong quá khứ và trong hiện tại, tức là
nghiệp.
Không Phải Tất Cả
Đều Do Nghiệp
Mặc dầu chủ trương rằng nguyên nhân
chánh tạo nên hoàn cảnh chênh lệch trong đời sống là sự khác biệt giữa cái
Nghiệp mỗi chúng sanh, Phật Giáo không quả quyết rằng tất cả đều do nơi Nghiệp.
Nói cách khác, Nghiệp không phải là nguyên nhân duy nhất tạo nên những khác
biệt, những sự chênh lệch giữa chúng sanh. Định luật Nghiệp Báo tuy quan trọng,
chỉ là một trong 24 nguyên nhân (Paccaya) [7] trong đời sống được mô tả trong
triết hoặc Phật Giáo. Để điều chỉnh quan niệm sai lầm cho rằng:"Những quả
lành, dữ, hay không-lành, không-dữ, tất cả đều phát sanh do những hành động [8]
(nghiệp đã tạo ra) trong quá khứ (Pubbekatehetu)", Đức Phật dạy:
"Nếu luận như vậy và quả quyết rằng
do những hành động trong quá khứ mà con người trở thành sát nhân, trộm cướp,
dâm loàn, láo xược, thô lỗ, nhảm nhí, tham lam, xảo quyệt, hư hèn, thì ta có lý
do để ỷ lại, dựa trên quá khứ mà không muốn thực hiện, không cố gắng thực
hiện,và cũng không cần thiết phải thực hiện, hay không thực hiện, một hành
động, dầu hành động ấy có đáng thực hiện hay không. [9]"
Đoạn kinh quan trọng trên đây đính chánh
một quan điểm sai lầm chủ trương rằng tất cả những xảy ra trong lãnh vực tinh
thần cũng như vật chất, đều do tiền nghiệp mà phát sanh.
Nếu kiếp sống hiện
tại tuyệt đối do hành động quá khứ chi phối hay hoàn toàn do tiền nghiệp chủ
động thì định luật Nghiệp Báo chẳng có gì khác hơn là Thuyết Định Mệnh hay Tiền
Định. Không ai còn tự do để cải thiện đời sống mình, trong hiện tại hay trong
tương lai, và tự do ý trí chỉ là một điều phi lý. Đời sống trở nên hoàn toàn tự
động và con người không mấy khác biệt với một cái máy.
Tin rằng chúng ta
được sanh ra do một đấng Tạo Hóa Toàn Năng, toàn quyền định đọat số phận và sắp
đặt trước định mạng mà, dầu muốn dầu không, ta không thể nào thay đổi được,
hoặc tin rằng cái Nghiệp tạo ra số phận và định đoạt đời sống của chúng ta thì
có gì khác nhau? Có khác chăng chỉ ở hai danh từ.
Thuyết định mạng như vậy không phải là
định luật Nghiệp Báo trong Phật Giáo.
Năm Niyama (Định Luật)
Theo Phật Giáo có năm định luật, hay
tiến trình (Niyama) [10] tác động trong lĩnh vực vật chất và tinh thần. Đó là:
1. Utu
Niyama, là
định luật vật lý có liên quan đến tiến trình của những sự vật vô cơ như hiện
tượng thời tiết, mưa, gió, nhiệt, hàn v.v... bốn mùa tám tiết và đặc tánh của
mỗi mùa như hạ thì nóng, đông thì lạnh cũng nằm trong định luật nầy.
2. Bija Niyama, là định luật vật lý có liên
quan đến tiến trình của những sự vật hữu cơ như cây cỏ. Do định luật nầy thì
mầm nào sanh giống đó. Cây lúa thì do bột lúa, cây cam thì do hột cam, vị ngọt
do đường, mía, mật ong mà ra v.v... Lý thuyết khoa học về tế bào và bẩm thụ
gene trong việc thọ thai cũng do định luật nầy chi phối. Sự giống nhau về
phương diện vật lý của hai trẻ sanh đôi cũng vậy.
3. Kamma
Niyama, là
định luật nhân quả hay là sự tiến triển từ hành động, thiện hoặc ác, đến quả,
lành hay dữ. Nhân gieo thì quả trổ. Nhân lành đem lại quả tốt. Nhân ác đem lại
quả xấu. Đó là định luật thiên nhiên, quả phải trổ sanh do nhân như vậy, chớ
không phải là hình thức thưởng hay phạt. Tiến trình từ nhân đến quả cũng tự
nhiên và cần thiết như sự xoay chuyển của mặt trăng quanh mặt trời. Đó là
nguyên tắc nhân quả tương xứng của định luật Nghiệp Báo.
Nguyên tắc của luật nhân quả là quả trổ
liên tục. Một nhà bác học tìm tòi, học hỏi, thâu thập được nhiều kiến thức và
kinh nghiệm trong đời sống, đến lúc chết và tái sanh, tất cả những kinh nghiệm
và kiến thức ấy cũng được chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác. Đối khi ta phảng
phất nhớ lại một vài kinh nghiệm và kiến thức trong kiếp trước, nhưng lắm lúc
ta quên hẳn, cũng như ta quên một vài kinh nghiệm và kiến thức đã thu thập lúc
còn nhỏ, trong cùng một kiếp sống. Do nguyên tắc quả trổ liên tục có những
trường hợp thần đồng nhạc sĩ, họa sĩ, sử học gia, ngôn ngữ gia v.v..., những em
bé chưa học mà nói được nhiều thứ tiếng.
4. Dhamma Niyama, là định luật của vạn pháp,
như những hiện tượng xảy ra khi một vị Bồ Tát đản sanh trong kiếp chót, luật
hấp dẫn lực và những định luật khác trong vũ trụ v.v... đều có thể liệt vào
lịch trình tiến triển nầy.
5. Citta
Niyama, là
định luật tâm lý, như tiến trình tâm, sự cấu tạo phần tâm linh, những năng lục
của tâm như thần giao cánh cảm, hiểu biết quá khứ vị lai, huệ nhãn, huệ nhĩ,
tha tâm htông, và những hiện tượng tượng tương tợ mà khoa học hiện đại chưa
giải thích được.
Năm lịch trình tiến triển tự nó là những
định luật dựa theo đó ta có thể giải thích tất cả những hiện tượng tâm lý cũng
như vật lý.
Nghiệp Báo chỉ là một trong năm định
luật ấy.
Cũng như tất cả định luật trong vũ trụ,
năm lịch trình tiến triển kể trên không do một oai lực thiêng liêng huyền bí
nào tạo nên.
Định luật liên
quan đến sự tiến triển vật lý, loại vô cơ, loại hữu cơ, định luật của vạn pháp
(Dhamma Niyama) là những lịch trình tiến triển ít nhiều tự động, mặc dầu trong
một giới hạn nào, trí thông minh của con người cũng có thể kiểm soát được. Thí
dụ như lửa nóng có đặc tánh làm phỏng da, tiết lạnh đến mức độ nào thì làm đông
nước, nhưng cũng có người có thể đi trên lửa mà không bị phỏng mà cũng có người
khỏa thân ngồi trên tuyết lãnh sơn mà không sao. Những người trồng hoa chuyên
nghiệp có thể tạo những cảnh vườn tụyêt đẹp với các loại hoa trái mùa, người
luyện phép du dà (yoga) có thể dùng oai lực thần bí nâng cao một vật nặng.
Định luật thuộc về phần tâm linh cũng
như máy móc như các định luật khác, nghĩa là cũng tác động một cánh hồn nhiên,
tự động, vô ý thức, không cần kích thích, không tùy thuộc nơi ý muốn nào bên
ngoài. Khi nhân đã gieo thì, do Nghiệp Báo, quả phải trổ.
Công phu tu tập
trong Phật Giáo nhằm mục đích kiểm soát tâm, và sự kiểm soát nầy có thể thực
hiện được nhờ hiểu biết chân chánh và tư tưởng trong sạch. Luật nhân quả tác
động một cách rất máy móc. Khi Nghiệp quá nặng thì dầu con người có muốn cũng
không thể sửa đổi hậu quả nghiêm khắc của nó. Nhưng trong những trường hợp ấy
cũng vậy, Chánh Kiến là tác ý trong sạch có thể sửa chữa phần nào cái Nghiệp.
Trong một giới hạn nào Nghiệp lành có thể làm dịu bớt quả dữ.
Định luật nhân quả thật phức tạp. Chỉ có
Đức Phật mới thấu hiểu được cội nguồn của nó.
Mục tiêu tối hậu của người Phật tử là
tận diệt Nghiệp.
-ooOoo-
Chú
thích:
[1] Sanskrit là
Karma.
[2] Đại tá Ingersol
viết như sau về văn hào trứ danh nước Anh, ông Shakespeare. "Cả cha lẫn mẹ
ông Shakespeare đều không biết đọc biết viết. ông Shakespeare trưởng thành
trong một làng bé nho giữa những người dốt".
[3] Kammassaka
manava satta, Kammadayada, Kammayoni, Kammabandhu, Kammapatisarana, Kamma satte
vibhajati yadidam hinappanitataya'ti. (Majjhima Nikaya, Trung A Hàm,
bài kinh Cullakammavibhanga Sutta, số 135).
Xem lời giải đáp của
Đại đức Nagasena cho Vua Milinda về vấn đề nầy. (Warren, Buddhism in
Translation, trang 214).
[4] Về sự báo ứng
của nghiệp, khi đề cập đến mối tương đồng giữa nhân và quả (nhân nào tạo quả
ấy), Tiến sĩ Crimm có viết như sau:
"Trong tất cả những trường hợp tương
tợ, ta có thể dẫn chứng dễ dàng rằng đinh luật tương đồng có tác dụng điều
chỉnh và chuyển hướng cho thức tái sanh phối hợp với một tế bào mới. Như người
kém lòng từ bi, giết chóc người và vật một cách dễ dàng, đã ôm ấp dưỡng nuôi
sâu kín trong lòng bản tánh sát sanh.
"Người ấy sẽ không ngần ngại và lắm
khi cũng lấy lòng thỏa thích mà giết một sanh mạng, tức là cắt đứt một sự sống
của một chúng sanh, hay nói cách khác, là thâu ngắn đời sống của một chúng
sanh. Tức nhiên mầm giống có khuynh hướng sát sanh, mầm giống có bẩm tánh thâu
ngắn đời sống, thấm nhuần trong người ấy và đến lúc chết, do định luật tương
đồng, bị hấp dẫn đến một cảnh giới cũng có những khuynh hướng tương tợ, và
trong cảnh giới ấy đương nhiên đời sống bị thu ngắn lại. Cùng một thế ấy, người
có tâm ác, vui thích trong việc hành hạ chúng sanh và làm cho kẻ khác đau đớn
tật nguyền cũng nuôi sâu kín trong lòng mầm giống hung ác ấy. Khi chết - do
định luật tương đồng, cái gì giống nhau có sức hấp dẫn lẫn nhau, xấu hút xấu,
tốt hút tốt - tâm ác sẽ bị thu hút đến những cảnh giới cũng hung ác như vậy,
với năng lực tạo nên một thân thể xấu xa dị tướng.
"Một người có tánh nóng giận hằng
kích thích những mầm giống có tính chất làm cho sắc diện trở nên xấu xa. Vì đổi
sắc diện là đặc tánh của sự giận dữ.
"Người nào có tánh ganh tỵ, keo kiệt,
kiêu hãnh, hằng tích trữ những bẩm chất thù hận, ác cảm, khinh rẻ kẻ khác,
những khuynh hướng khai triển mầm giống tương xứng với cảnh nghèo khổ v.v...
"Đó dĩ nhiên, chỉ là hậu quả của
nghiệp đã tạo trong quá khứ, có thể thay đổi tánh nam hay tánh nữ, như kinh
Digha Nikaya, Trường A Hàm, số 21 có thuật rằng Gopiksa, vì bà rất ghét tâm
tánh đàn bà và do đó tự tạo cho mình một bẩm tánh đàn ông". The Doctrine
of the Buddha, trang 191.
[5] Digha Nikaya,
Trường A Hàm, iii, trang 112, số 30.
[6] The Expositor,
trang 65, chương 87.
[7] Xem Compendium
of Philosophy, trang 191, Manual of Abhidhamma, tác giả Narada Thera.
[8] Hành động bằng
thân, khẩu hay ý.
[9] Angutatara
Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, trang 173; Gradual Sayings; Phần i, trang 157.
[10] Xem
Abhidhammavatara, trang 54. Bà Rhys Davids, Buddhism, trang 119.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét