BỨC THÔNG ÐIỆP BẤT DIỆT
Một số người thích gọi giáo lý của Ðức Phật
là một tôn giáo, một số khác lại gọi là triết lý, và cũng có người nghĩ rằng là
cả hai tôn giáo và triết lý. Tuy nhiên, nói cho đúng hơn có thể gọi là "Lẽ
Sống". Nhưng cũng không có nghĩa Phật Giáo chỉ là một nền đạo đức. Hầu như
trái lại, Phật giáo là con đường huấn luyện luân lý, tinh thần và trí thức hầu
dẫn tới tâm trí hoàn toàn được tự do. Chính Ðức Phật gọi giáo lý của Ngài là
"Dhamma-Vinaya" (Pháp-Luật), Học Thuyết và Kỷ Luật.
Nhưng Phật Giáo, trong nghĩa hẹp không thể gọi là tôn giáo, vì tôn giáo có
nghĩa là 'hành động hay hạnh kiểm biểu lộ niềm tin sự sùng kính, và ham muốn
làm vừa lòng đấng thần linh có quyền năng nào đó, tu tập hay thực hành lễ nghi
và sự tuân thủ ngụ ý công nhận đấng quyền năng vô hình giám sát số phận của
mình, và ta phải phục tùng, tôn thờ và lễ bái'. Phật giáo không phải là một tôn
giáo như vậy.
Trong
tư tưởng Phật Giáo, không có sự nhận thức hay tin chắc có sự hiện hữu của Ðấng
Sáng Tạo dưới bất cứ dạng thức nào có quyền thưởng phạt các hành vi thiện ác
của người mà Ðấng đó tạo ra. Người Phật Tử nương tựa nơi Ðức Phật (Buddham
suranam gacchami) không phải trong niềm hy vọng được Giáo Chủ cứu vớt. Ðức
Phật chỉ là một vị Thầy chỉ con đường và hướng dẫn tín đồ tự giải thoát.
Một cái
bảng cắm trên đường đi, thí dụ, một tấm biển báo ở chỗ về, chỉ dẫn quan sát
bước chân đi của mình. Chắc chắn bảng đó không mang người bộ hành đến nơi muốn
đến được.
Một bác
sĩ khám bệnh và cho toa thuốc, phần người bệnh là thử nghiệm toa thuốc đó. Thái
độ của Ðức Phật đối với tín đồ cũng giống thái độ của người thầy hiểu biết và
từ bi hay thầy thuốc.
Sự thờ
cúng cao cả nhất là tri ân những tinh hoa của nhân loại, những người có tâm hồn
vĩ đại và dũng cảm với sự hiểu biết uyên bác sự thật, quét sạch vô minh và nhổ
hết gốc rễ ô trược. Người nhìn thấy chân lý là người cứu giúp thực sự, nhưng
người Phật Tử không cầu nguyên họ. Họ chỉ tôn thờ những người đã tìm ra Chân Lý
vì đã chỉ con đường đi đến chân hạnh phúc và giải thoát. Hạnh phúc là điều mà
ta phải tự dạt lấy; không ai có thể làm cho ta tốt hơn hay xấu hơn. 'Thanh tịnh
hay không thanh tịnh' tùy thuộc chính ở ta. Người ta không thể thanh tịnh hay ô
nhiễm người khác.
Ði
Tìm Chân Lý
Trong
khi lúc lâm chung nằm trên giường giũa hai cây Sa La tại Kusinara, Ðức Phật tám
mươi tuổi nhìn thấy nhiều hoa dâng cho Ngài, Ngài liền dặn dò Ðại Ðức Anan: Này
A Nan, những ai sống cuộc đời chính đáng, đúng theo Pháp- những người đó chính
là những người vinh danh, tôn thờ và kính quý Như Lai (Ðấng Ðại Giác) với tấm
lòng kính trọng cao quý nhất. Cho nên, này A Nan, nên sống một cuộc đời chính
đáng, sống theo đúng Pháp. Vậy nên bạn nên tự rèn luyện. Ðức Phật khuyến khích
sống theo đúng Pháp cho thấy rõ ràng có sự tối quan trọng trong việc huấn luyện
ý, khẩu và thân, chứ không phải chỉ dâng hoa cho Ðấng Giác Ngộ. Sự nhấn mạnh là
về đời sống chính đáng.
Về phần
Phật Giáo có phải là một triết lý hay không còn tùy thuộc vào sự định nghĩa tù
này, và phải chăng có thể định nghĩa nó bao trùm tất cả hệ thống tư tưởng triết
lý là đáng khả nghi. Theo từ nguyên học, Triết lý có nghĩa là yêu (Gr
philein) trí tuệ (sophia). 'Triết lý là vùa nhằm tìm
trí tuệ vừa là trí tuệ được tím thấy'. Trong tư tưởng Ấn Ðộ, triết lý gọi
là darsana, cái nhìn chân lý. Tóm lại, mục đích của triết lý phải là tìm ra
chân lý tối hậu.
Phật
Giáo cũng chủ trương tìm chân lý. Nhưng không phải chỉ là lý luận có tính cách
ức đoán, môt cấu trúc lý thuyết, hay chỉ thâu thập và tồn trữ kiến thức. Ðức
Phật nhấn mạnh đến khía cạnh thực hành giáo lý của Ngài, sự áp dụng kiến thức
vào đời sống- hướng vào đời sống chứ không phải chỉ xem xét nó ở đời sống không
thôi.
Ðối với
Ðức Phật, toàn bộ giáo lý chỉ là để hiểu bản chất bất toại nguyện của hiện
tượng sống và mở mang con đường dẫn đến tránh khỏi bất toại nguyện. 'Ðó là
triết lý của Ngài'.
Trong
Phật Giáo, trí tuệ có tầm quan trọng nhất vì thanh tịnh đ?n qua trí tuệ, qua
hiểu biết. Nhưng Ðức Phật không bao giờ chỉ tán dương trí thức. Theo Ngài, kiến
thức phải đi đôi tay trong tay với tâm thanh tịnh, với luân lý ưu tú (Vijjacaranasampanna).
Trí tuệ đạt được bằng sự hiểu biết và sự phát triển chất lượng của đầu óc và tâm
là trí tuệ bậc nhất (bhavanamaya panna). Ðó là kiến thức dành dụm được
không phải chỉ là sự ức đoán, sự hợp lý hay lý luận chỉ có bề ngoài. Như vậy,
rõ ràng Phật Giáo không phải chỉ là tình thương mà cũng chẳng phải đem lại sự
tìm kiếm sau trí tuệ, cũng chẳng phải sùng bái (mặc dầu họ có ý nghĩ và tác
phong về nhân loại), nhưng mà là sự khuyến khích việc áp dụng thực tiễn giáo lý
dẫn tín đồ đến vô tư, giác ngộ, và giải thoát cuối cùng.
Mặc dù
chúng ta gọi giáo lý của Ðức Phật là 'Phật Giáo", vì thế gộp
nó vào 'học thuyết' và 'học thuật', nhưng không phải là
vấn đề chúng ta dán nhãn gì cho nó. Gọi nó là tôn giáo, triết lý, Phật Giáo hay
bất cứ nhãn hiệu nào mà bạn thích. Những nhãn hiệu ấy không có ý nghĩa gì với
người đi tìm chân lý và giải thoát.
Khi
Upatissa và Kolita (sau này trở thành Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, hai Ðại Ðệ
Tử của Ðức Phật) đang đi tìm kiếm học thuyết giải thoát, gặp Ngài Assaji (A Tư
Ðà, một trong năm đệ tử đầu tiên của Ðức Giáo Chủ) đang đi khất thực. Upatissa
hết sức cảm kích phong độ cao quí của vị Trưởng Lão này. Nghĩ rằng bây giờ chưa
phải là lúc tìm kiếm hỏi han, Upatissa liền theo Ngài Assaji đến chỗ Ngài nghỉ;
Upatissa đến gần, chào Ngài và hỏi Ngài về giáo lý của Ðức Bổn Sư. Ngài Assaji,
vốn người ít nói, từ tốn trả lời: "Ta không thể dông dài giải thích giáo
pháp và giới luật, nhưng ta có thể vắn tắt tóm lược ý nghĩa". Upatissa trả
lời:Vậy này Ðạo Hữu, ý nghĩa sao phải nhiều lời. Lúc bấy giờ, Ngài Assaji lập
lại câu kệ bao gồm toàn thể giáo lý nhân quả của Ðức Phật:
"Về các pháp phát sanh do
nguyên nhân
Như Lai đã chỉ dạy nguyên nhân ấy
Nguyên nhân chúng chấm dứt, Như Lai cũng chỉ dạy
Ðó là giáo huấn của Bậc Ðại Hiền Triết"
Upatissa
tức khắc lãnh hội ý nghĩa và chứng đắc bậc Thánh đầu tiên - giai đoạn nhận thức
đầu tiên, thấu triệt " bất luận cái gì có bản chất của sự phát sanh, tất
cả những cái đó có bản chất của sự chấm dứt".
Vị
Thầy Thực Tiễn
Bàn
bạc, thảo luận đến đâu mà không nhằm vào hiểu biết đúng (chánh kiến) sẽ không
dẫn chúng ta đến giải thoát. Ðiều cần thiết là kiến thức đúng. Chúng ta có thể
tìm nguồn gốc lời chỉ dạy đúng từ thiên nhiên, từ cây cối, và hoa, từ đá và
sông. Có nhiều trường hợp, có người đạt giác ngộ và thoát khỏi nhiễm trược khi
nhìn thấy chiếc lá rụng, nước chảy, lửa cháy rừng, một ngọn đèn tắt. Cái này
đánh trúng thức tỉnh những người ấy, hiểu cái bản chất vô thường của mọi vật,
họ đạt giải thoát. Ðúng, hoa sen chờ ánh sáng mặt trời, không bao lâu khi mặt
trời chiếu sáng hoa sen nở và mang niềm vui đến tất cả.
Ðức
Phật không quan tâm đến những vấn đề siêu hình vì chúng chỉ làm cho con người
bối rối và đảo lộn trạng thái cân bằng của tinh thần. Câu trả lời về những vấn
đề ấy không giải thoát nhân loại khỏi nghèo túng và bất hạnh. Ðó là lý do tại
sao Ðức Phật miễn cưỡng không trả lời những câu hỏi ấy, và có lúc Ngài kiềm chế
giảng giải những câu hỏi thường được đặt sai. Ðức Phật là một vị thầy thực
tiễn. Mục đích duy nhất của Ngài là giải nghĩa tất cả những chi tiết về Khổ (dukkha),
thực trạng bao quát của đời sống, làm cho con người cảm nhận được toàn bộ sức
mạnh của mình, và làm cho con ngưới ý thức được về nó. Ngài nói rõ cho chúng ta
biết những gì Ngài giải thích và những gì không giải thích.
Một lần
Ngài ngụ tại Kosambi (gần Allahadah) trong rừng cây Simsapa. Cầm một nắm lá
trong tay, Ngài hỏi các thầy Tỳ kheo:
- Này các Thầy, các Thầy nghĩ
sao, lá trong tay Như Lai hay lá của cây mọc trong rừng trên động kia, lá nào
nhiều?
-Bạch Ðấng Thế Tôn, lá cầm
trong tay Ngài ít, lá trong rừng kia nhiều.
- Này các Thầy, cũng như vậy
đó, có rất nhiều điều ta hiểu biết hoàn toàn nhưng ta không nói cho các Thầy
biết, chỉ có một số ít điều ta đã chỉ bảo cho các Thầy. Và tại sao, ta không
chỉ bảo cho các Thầy? Này các Thầy, vì những điều đó không hữu ích, không thiết
yếu cho đời sống thanh tịnh, không dẫn đến nhàm chán, vô tư, tịch tịnh, thanh
thản, hiểu biết hoàn toàn, giác ngộ, và Niết Bàn. Này các Thầy, đó là tại sao
ta không nói cho các Thầy biết.
- Này các Thầy, điều gì ta đã
nói với các Thầy? Ðó là Khổ - ta đã nói - Ðó là nguyên nhân của khổ - ta đã nói
- Ðó là con đường dẫn đến diệt khổ - ta đã nói.
- Này các Thầy, và tại sao ta
đã nói đến những chân lý ấy? Vì những chân lý ấy hữu dụng, thiết yếu cho đời
sống thanh tịnh, dẫn đến nhàm chán, vô tư, tịch tịnh, thanh thản, hiểu biết
hoàn toàn, giác ngộ và Niết Bàn. Cho nên, này các Thầy, ta nói các điều đó.'
Trên dây là lời Ðức Phật.
Tuy
nhiên một số học giả không tán đồng thái độ của vị Giáo Chủ, họ nghi ngờ sự
giác ngộ của Ðức Phật và gán cho Ngài nhãn hiệu thuộc phái theo thuyết 'bất khả
tri' ('không thể biết'). Các học giả cứ mãi lập luận và suy đoán. Ðây không
phải là câu hỏi của hôm nay hay hôm qua, chúng được nêu lên trong thời Ðức
Phật. Cả đến vị du tăng Sakuladayi, chẳng hạn, hỏi Ngài về quá khứ và vị lai,
Ngài khẳng định:
" Hãy nói quá khứ, nói vị
lai, ta sẽ dạy Pháp này cho ông:
Khi điều này hiện hữu, thì có điều kia,
Với sự phát sanh của cái này, cái kia phát khởi.
Khi điều này không hiện hữu, thì không có điều kia,
Với sự chấm dứt của cái này, cái kia chấm dứt"
Tóm
lại, đây là học thuyết Phật Giáo về tính điều kiện hay sự phát sanh tùy thuộc
(lý duyên khởi-paticca samupadda). Và điều này hình thành nền móng cho
Tứ Diệu Ðế, quan niệm chủ yếu của Phật Giáo.
Vị
Bác Sĩ Vô Song
Ðức
Phật được biết như một vị thầy thuốc vô song (bhisakho), một nhà giải
phẫu tối thượng (sallakatto anuttara). Ngài là một nhà chữa bệnh vô
địch. Phương pháp trình bày của Ngài về Tứ Diệu Ðế có thể so sánh như phương
pháp của một thầy thuốc. Là một thầy thuốc, Ngài trước nhất chẩn bệnh, rồi Ngài
khám phá ra nguyên nhân của bệnh hay sự phát sanh ra bệnh rồi làm sao bỏ bệnh
và cuối cùng áp dụng cách chữa trị.
Khổ (dukkha)
là bệnh, ái dục (tanha) là sự phát sinh hay căn nguyên của bệnh (samudaya),
bằng cách loại ái dục, bệnh được loại đi và đó là chữa khỏi bệnh (nirodha-nibbana).
Bát Chánh Ðạo (magga) là phương thuốc.
Một
người bệnh phải nhận thức rằng mình bị đau, phải ý thức ngay trước khi nó trở
nên trầm trọng, phải nghĩ ngay đến phương pháp loại bỏ nguyên nhân, với mục
đích phải đi bác sĩ để được chẩn bệnh và có phương thuốc. Nhờ sự hữu hiệu của
phương thuốc, người bệnh hết đau và đó là việc chữa bệnh. Như vậy, khổ đau
không nên bỏ qua mà phải biết đến (abhineyya); vì vậy khổ đau là bệnh.
Ái dục, nguyên nhân phải tiêu diệt, loại bỏ (pahatabha); Bát Chánh Ðạo
phải được thực hành, trau dồi phát triển (bhavetabba); đó là phương
thuốc. Với kiến thức về khổ đau, với việc loại bỏ ái dục bằng sự tu tập Bát
Chánh Ðạo, thành tựu Niết Bàn (Sacccikatabba) là điều chắc chắn đạt
được. Ðó là chữa khỏi bệnh, một sự buông bỏ hoàn toàn, sự giải thoát khỏi ái
dục.
Trả lời
Sela, một người Bà La Môn nghi ngờ sự giác ngộ của Ðức Phật, Ngài chỉ dạy:
"Ta biết cái gì cần phải
biết, cái gì cần phải trau dồi ta đã trau dồi. Cái gì phải loại bỏ, ta đã không
còn giữ. Cho nên, này ông bà la môn, ta là Phật - một người Giác Ngộ"
Vì
những chân lý này liên kết và phụ thuộc lẫn nhau, cho nên thấy hiểu một hay
nhiều hơn trong bốn chân ly cũng là thấy hiểu những chân lý khác. Với người
chối bỏ không nhận có khổ đau, con đường đi tới để đạt giải thoát khỏi khổ đau
là vô nghĩa. Tóm lại, không công nhận một chân lý cũng là không công nhận ba
chân lý kia thì đó là không công nhận toàn bộ giáo lý của Ðức Phật.
Với
cách nói của những nhà duy vật kiên định: "Tôi không thể nào nuốt được tất
cả cái vô nghĩa này", giáo lý này có vẻ không gì hơn là chán ngắt, không
hiểu được và không đúng chỗ, nhưng với những ai tranh đấu để mở mang một quan
niệm thực tế về cuộc sống, thì giáo lý này không hoang đường, không phải là
truyện tưởng tượng nói với kẻ khờ dại.
Với
những ai quan sát chúng sanh trên thế giới từ một góc độ chính xác có nghĩa là
với sự nhận thức sâu sắc không thiên vị, thì điều đó trở nên rất rõ ràng, chỉ
có một vấn đề trên thế giới này, đó là khổ đau. Như Ðức Phật đã nói: thế giới
này được thiết lập trên khổ đau, đặt nền móng trên khổ đau (dukhe loko
patitthio). Nếu bất cứ sự việc gì trở thành vấn đề, chắc chắn có khổ đau,
bất toại nguyện, hay có thể nói - mâu thuẫn- mâu thuẫn giũa những ham muốn của
chúng ta với các sự kiện của đời sống.
Từ một
vấn đề đơn giản chúng ta đặt nhiều tên khác nhau: kinh tế, xã hội, chính trị,
tâm lý và cả vấn đề tôn giáo. Có phải tất cả đều bắt nguồn từ một vấn đề, khổ
đau (dukkha), gọi là bất toại nguyện? Nếu không có bất toại nguyện, tại
sao ta cần tranh đấu để giải quyết? Phải chăng không giải quyết một vấn đề ngụ
ý làm giảm bất toại nguyện? Tất cả những vấn đề gây ra bất toại nguyện, và nỗ
lực là để chấm dứt chúng, nhưng chúng lại sinh ra nhau. Nguyên nhân thường
không phải bên ngoài, mà chính trong vấn đề ấy, nó có tính cách chủ quan. Chúng
ta thường nghĩ rằng chúng ta đã giải quyết hết các vấn đề, thỏa mãn tất cả
những gì liên quan đến, nhưng những vấn đề đó lại bất ngờ xuất hiện trong những
dạng thức khác, theo nhiều cách linh tinh khác. Dường như lúc nào chúng ta cũng
phải đương đầu với vấn đề mới, và ta phải đem nỗ lực mới để giải quyết chúng,
và cứ như vậy các vấn đề và giải quyết vấn đề cứ tiếp diễn. Ðó là bản chất của
khổ đau, đặc diểm phổ quát cuộc sống của chúng sanh. Khổ đau hiện ra và mất đi
rồi lại tái xuất hiện trong những dạng thức khác. Chúng là cả vật chất lẫn tâm
lý, một số người có khả năng có thể chịu đựng vật chất hơn tâm lý hay ngược
lại.
-oo0oo-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét