CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ
Theo kinh điển Nikaya
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là
thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể
khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Ðạo Phật cũng là đạo bình đẳng và tự
giác cho tất cả những ai muốn tìm đến con đường hướng thượng của sự giải thoát
và giác ngộ. Kinh Pháp Cú có câu: "Người thấm nhuần giáo pháp sống
hạnh phúc với tâm an lạc. Hàng trí tuệ luôn luôn hoan hỷ trong giáo pháp mà các
bậc thánh nhơn đã tìm ra".
* * *
Ngược dòng thời gian để nhìn lại quá
khứ, Thái tử Tất-đạt-đa thấy cuộc đời là bể khổ, chúng sanh đang trôi lăn trong
vòng sanh sanh, tử tử với cảnh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu não, đang
diễn bày trước mắt, do vậy Ngài đã từ bỏ ngai vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh
để đi tìm một công án cho chính mình đó là- giải thoát cho tất cả chúng sinh
khỏi vòng luân hồi sanh tử. Ngài đã từ giã hoàng cung vào một đêm trăng thanh
khi sao mai vừa mới mọc cùng con kiền trắc và Sa-nặc vượt dòng sông A-nô-ma để
đi tìm chân lý.
Ðầu tiên Ngài đến học đạo với hai đạo sĩ
tên là Alara Kalama và Adduka Ramaputta và đã chứng được hai trạng thái thiền
Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng Ngài nghĩ rằng hai quả vị này
chưa phải là những quả vị tối thượng như Ngài mong muốn. Rồi Ngài từ giã hai vị
này để đi tìm chân lý cho công án của chính mình.
Trải qua sáu năm trường tu khổ hạnh,
nhưng Ngài vẫn không đạt được kết quả gì:
Sáu năm tầm đạo chốn
rừng già
Khổ hạnh ai bằng Ðức Thích Ca
Chim hót trên vai sương phủ áo
Hươu kêu bên núi tuyết đơm hoa.
Sau đó Ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh này,
trở về với con đường trung đạo. Ngài đến Bodhgaya ngồi nhập định dưới cội
Bồà-đề và phát nguyện rằng: "Nếu ta không thành đạo thì dù thịt nát xương
tan ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này."
Trong 49 ngày đêm ngồi tham thiền nhập
định, Ngài đã chiến đấu với giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, mạn
nghi và chiến đấu với giặc Thiên ma do Ma vương ba tuần chỉ huy. Sau khi thắng
được giặc ở nội tâm và ngoại cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài hốt nhiên đại
ngộ, chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác và trở thành Ðức Phật
Thích-ca-mâu-ni.
Ðức Phật vì một đại nguyện lớn lao, vì
một lòng từ bi vô bờ bến mà xuất gia tìm đạo. Ðại nguyện và lòng từ bi rộng lớn
ấy là: "Cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba
đường khổ." Do vậĩy sau khi giác ngộ Ngài không nhập Niết-bàn ngay, mà
liền nghĩ đến việc giáo hoá chúng sanh.
Tất cả chúng sanh không phân biệt đẳng
cấp, chủng tộc, sang hèn, nếu thực hành theo giáo lý của Ngài ắt sẽ được an
vui, giải thoát, tịch tịnh. Sự giải thoát theo đạo Phật không ở đâu xa, mà ngay
trong cuộc sống hiện tại này. Con đường giải thoát mà Ngài đã dạy cho chúng ta
qua kinh điển Nikàya, đó là Giới, Định và Huệ. Kinh Tứ Niệm Xứ dạy rằng:
"Này các tỳ-kheo, đây là con đường
độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu,
thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn, đó là bốn niệm xứ."
Bốn niệm xứ đó là: quán thân trên thân;
quán thọ trên các thọ; quán tâm trên tâm và quán pháp trên các pháp
Tứ niệm xứ là pháp môn Chỉ-Quán hay
Ðịnh-Tuệ song tu. Nhưng trước khi đi vào thực tập chỉ quán song tu Ngài dạy
chúng ta phải giữ gìn giới luật, có trì giữ giới luật thì thân tâm mới trong
sạch, nhẹ nhàng để bước vào hành thiền đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Giới luật như
hàng rào ngăn chặn không cho ngoại ma xâm nhập vào, giữ gìn nội tâm yên tịnh,
để đi vào định một cách dễ dàng, do vậy Ðức Phật luôn dạy đệ tử của Ngài phải
hành trì giới luật trước khi hành thiền. Ðiều này được đức Phật nói rõ trong
bài Ðại Kinh Xóm Ngựa sau đây:
- Phải biết tàm quí
trong khi nhận của cúng dường.
- Thân hành, khẩu hành, ý hành, sanh mạng phải được thanh tịnh, minh chánh.
- Phải hộ trì các căn.
- Phải tiết độ trong ăn uống.
- Phải chú tâm cảnh giác.
Sau khi trì giới làm cho thân thanh
tịnh, chúng ta lựa một chỗ thanh vắng như thiền đường, gốc cây, khu rừng, hay
bất cứ nơi nào thuận tiện và thoải mái cho việc hành thiền, rồi chúng ta ngồi
kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt, rồi thực hành phương pháp
niệm hơi thở vô, hơi thở ra (Anàpànasati). Trong Kinh Một Pháp, Ðức Phật dạy
phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở ra với 16 đề mục: bốn đề mục về thân; bốn
đề mục về thọ; bốn đề mục về tâm và bốn đệ mục về pháp.
Pháp môn này thuộc về pháp môn Tứ Niệm
Xứ (cattàro-satipatthàna), tức là pháp môn đề cập đến bốn chỗ (xứ) để an trú
niệm tức là thân, thọ, tâm và pháp. Pháp môn Anàpànasati này đề cập
đến 16 đề tài về thân, bốn đề tài về thọ, bốn đề tài về tâm, và bốn đề tài về
pháp. Người hành thiền vừa thở vô, vừa thở ra, vừa suy tư quán tưởng trên 16 đề
tài liên hệ đến hơi thở.
Pháp môn này cho cả thiền định và trí
tuệ, gồm chỉ (samatha) và quán (vipasana). Cả hai chỉ quán đều song tu trong
pháp môn này. Khi dùng tầm tứ cột tâm trên hơi thở vô hơi thở ra, như vậy là
chỉ, như vậy là định. Khi lấy trí tuệ quán sát 16 đề tài được lựa chọn, như vậy
là quán, như vậy là tuệ.
Tu tập thiền chỉ thì có thể chứng được
từ sơ thiền đến tứ thiền, rồi từ không vô biên xứ đến phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Sau đó dùng thiền quán để chứng được diệt thọ tưởng định. Hoặc có thể từ tứ
thiền rồi chuyển qua thiền quán để hướng tâm đến túc mạng trí, sanh tử trí, và
lậu tận trí. Khi hướng tâm đến lậu tận trí vị ấy biết như thật: "Đây
là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường đưa đến khổ diệt, đây là
những lậu hoặc, đây là nguyên nhân của lậu hoặc, đây là các lậu hoặc diệt, đây
là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt. Nhờ vậy vị ấy thoát khỏi dục lậu, hữu
lậu, vô minh lậu... vị ấy biết sanh đã tận phạm hạnh đã thành việc cần làm đã
làm ; không có trở lui đời sống này nữa." Vì thế cho nên thiền quán
đóng một vai trò rất quan trọng trong tiến trình đưa đến giải thoát.
Nhìn vào cuộc sống sau khi thành đạo của
đức Từ phụ chúng ta thấy, nếp sống hằng ngày của Ngài có hai việc chính là
thuyết pháp và hành thiền. Ngài là vị chánh đẳng chánh giác, là bậc được thế
nhân tôn sùng, kính lễ, nhưng Ngài vẫn hành thiền mỗi ngày, đó là vì Ngài muốn
làm gương để sách tấn chư đệ tử của Ngài phải luôn tinh tấn hành thiền. Chúng
ta thường gặp hai lời khuyên của Ðức Phật cho các tỳ-kheo xuất gia:
"Này các tỳ-kheo, khi các người hội
họp lại thường có hai việc phải làm: một là đàm luận về phật pháp, hai là giữ
im lặng của bậc thánh". Sự im lặng của bậc thánh ở đây là hành thiền.
Lời dạy thứ hai là lời khuyên hành thiền
của Ðức Phật: "Này các tỳ-kheo, đây là gốc cây, đây là những căn nhà
trống, này các tỳ-kheo, hãy tu thiền, chớ có phóng dật, chớ có sanh lòng hối
hận về sau. Ðây là lời giáo huấn của Ta cho các ngươi." Và khi sắp
nhập Niết-bàn, Ðức Phật nhắc đi nhắc lại nếp sống của một tỳ-kheo tối thắng là
tu thiền định, thiền quán.
"Này Anada, ở đời, vị tỷ kheo, đối
với thân quán thân, tinh tấn,tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu
bi trên đời, đối với các cảm thọ ... đối với tâm ... đối với các pháp, quán
pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời.
Này, Anada, như vậy vị tỳ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình
nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một vật gì khác."
Ðức Phật luôn luôn dạy các đệ tử của
Ngài, ngay lúc Ngài còn sống, cũng như trước khi nhập diệt, phải tinh tấn hành
thiền, vì chỉ có một con đường duy nhất đưa đến giác ngộ giải thoát đó là hành
thiền.
Như chúng ta thấy bậc Ðạo Sư của chúng
ta trước khi thành đạo, Ngài đã có nhiều kinh nghiệm về thiền như vậy và đã tự
mình khám phá ra con đường giới định tuệ đưa đến giác ngộ giải thoát, cho đến
khi thành đạo và ngay cả trước khi Niết bàn Ngài cũng hành thiền định. Trong
suốt 45 năm sau khi thành đạo Ngài thuyết pháp, hành thiền và dạy đệ tử hành
thiền, những bài thuyết pháp của Ngài đều nhấn mạnh về thiền.
Chúng ta là những người hậu học, đang
trên đường tu tập, để nối bước theo dấu chân Ngài, chúng ta phải tinh tấn thiền
định, nhưng trước khi thiền định phải giữ gìn giới luật nghiêm minh, vì có giới
mới đi vào định được, khi định được viên mãn thì trí tuệ phát sanh. Trí tuệ là
lưỡi gươm sắc bén nhất, có thể cắt đứt được tận gốc rễ của phiền não, tham,
sân, si, mạn, nghi, giống như cây Tala một khi bị cắt đứt ngọn thì không thể
mọc lên được nữa. Khi các kiết sử được đoạn tận gốc rễ, chúng ta mới được an
vui, giải thoát. Sự an vui giải thoát này không ở đâu xa, mà chính ở ngay trong
cuộc sống này.
Vì thế cho nên, tất cả chúng ta, giờ
giờ, khắc khắc phải tinh tấn tu học, thực hành Tam vô lậu học (giới-định-tuệ).
Vì đó là con đường duy nhất đưa chúng ta đến cõi an vui, giải thoát, tịch diệt,
và Niết-bàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét