THIỀN MINH SÁT (VIPASSANA)
Về con đường phát triển tâm linh của
Phật Giáo, trước tiên chúng ta Quy Y rồi giữ giới, sau đó hành Thiền Định. Bây
giờ chúng ta bước thêm một bước nữa là hành Thiền Minh Sát (vipassanā), đó là con đường trí tuệ.
Nếu phát triển được Thiền Định thì tốt,
nhưng nếu chỉ một mình Thiền Định thôi thì không thể Giác Ngộ. Muốn Giác Ngộ,
muốn chấm dứt đau khổ chúng ta phải thực hành trí tuệ pañña. Muốn thực hành trí
tuệ thì chúng ta phải hành Thiền Minh Sát. Các bạn đã hành Thiền Minh Sát nhiều
năm, đã biết cách thức hành thiền, nhưng hôm nay tôi sẽ nói cho các bạn về lý
thuyết của Thiền Minh Sát. Đây là một khóa học về căn bản của Phật Giáo, nên
tôi phải bao gồm Thiền Minh Sát.
Đầu tiên chúng ta phải tìm hiểu nghĩa
của chữ minh sát vipassanā. Chữ vipassanā được dịch là pháp nội quán. Được dịch
là pháp nội quán bởi vì Thiền Minh Sát xuyên thấu vào bản chất của Vật Chất và
Tâm, nhưng theo nghĩa chuyên môn của chữ vipassanā thì có chút khác biệt. Bạn
cần phải hiểu nghĩa chuyên môn này nữa. Vipassanā có nghĩa là thấy bằng nhiều
cách. Chữ vipassanā gồm hai chữ “vi” và “passana”. “Vi” là tiếp đầu ngữ có
nghĩa là nhiều cách. “Passana” có nghĩa là thấy. Bằng nhiều cách ở đây có nghĩa
là thấy Vật Chất và Tâm hay Ngũ Uẩn, hay các Pháp Hữu Vi (các pháp có điều
kiện) là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Nghĩa tiềm ẩn trong chữ minh sát có nghĩa là
khi thực hành Thiền Minh Sát bạn phải thấy sự Vô Thường, Khổ, Vô Ngã của đối
tượng đang quán sát. Chỉ khi nào thấy ba đặc tính này bạn mới có thể nói là bạn
đang thật sự hành Thiền Minh Sát.
Thiền Minh Sát (vipassanā) được Đức Phật
khám phá và được chính Ngài dạy cho chúng sinh. Chắc các bạn đã biết Đức Phật
từng hành khổ hạnh trong rừng suốt sáu năm dài. Cuối cùng Ngài nhận thấy mục
đích của mình vẫn còn ở quá xa. Đức Phật kiểm lại sự thực hành của Ngài và đi
đến kết luận là mình đã thực hành sai lầm. Sau đó, Đức Phật khám phá ra con
đường trung đạo là thực hành vipassanā. Ngài thực hành và đạt được kết quả tốt
đẹp nhất, đó là trở thành một vị Phật.
Sau khi Giác Ngộ quả Phật, Ngài đi du hành
khắp nơi truyền bá giáo pháp. Ngài thuyết giảng nhiều bài pháp và giảng dạy về
vipassanā hay satipaṭṭhāna nhiều lần. Như vậy, chỉ khi Đức Phật xuất hiện trên
thế gian, mới có chúng sinh hiểu biết và thực hành Thiền Minh Sát. Và khi giáo
pháp của Đức Phật vẫn còn tồn tại trên thế gian này mới có sự hiểu và thực hành
Thiền Minh Sát.
Dù không có Đức Phật ra đời, không có
giáo pháp của Đức Phật, người ta vẫn có thể thực hành Thiền Định, nhưng chỉ vào
thời kỳ của Đức Phật hoặc khi giáo pháp của Đức Phật còn lưu hành người ta mới
có thể thực hành Thiền Minh Sát. Chỉ có Thiền Minh Sát mới giúp xuyên thấu vào
bản chất thật sự của Vật Chất và Tâm, Giác Ngộ Tứ Diệu Đế (thấy rõ bốn sự thật
cao thượng).
Vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế, và cả
ngàn năm sau khi Ngài nhập diệt, Thiền Minh Sát vẫn được nhiều người thực hành.
Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng một ngàn năm cho đến bây giờ, dường như ít ai
thực hành Thiền Minh Sát. Bởi vì những Chú Giải được viết trong vòng một ngàn
năm từ lúc Đức Phật Niết Bàn, lúc còn rất nhiều người hành Thiền Minh Sát, nên
thường hay đề cập đến những người hành Thiền Minh Sát và Giác Ngộ Đạo Quả. Sau
một ngàn năm đó, những người hành thiền và những người Giác Ngộ trở nên hiếm
hoi. Ngài Mahasi nói rằng: khoảng thời gian sau khi Đức Phật diệt khoảng một
ngàn năm cho đến bây giờ rất ít người thực hành Thiền Minh Sát. Câu này có
nghĩa là sau một ngàn năm Đức Phật nhập diệt cho đến bây giờ có ít người hành
Thiền Minh Sát chứ không phải là không có ai.
Sau một ngàn năm, từ khi Đức Phật Niết
Niết Bàn cho đến bây giờ, đa số các vị Sư sống trong rừng mới hành Thiền Minh
Sát, những vị Sư sống ở thành phố phần lớn không hành thiền. Trong những tài
liệu cổ được ghi chép lại, chỉ thỉnh thoảng người ta mới gặp những vị Sư đắc
quả A La Hán. Nếu những vị này thật sự là A La Hán thì các vị phải hành Thiền
Minh Sát.
Mặc dù có rất ít người thực hành Thiền
Minh Sát, nhưngThiền Minh Sát vẫn còn. Những người hành Thiền Minh Sát thời bấy
giờ chỉ hành thiền cho chính họ mà không dạy cho nhiều người. Các vị chỉ dạy
Thiền Minh Sát cho các học trò thân cận hay những bạn bè gần gũi. Bởi vậy rất
ít người có cơ hội hiểu được cách hành Thiền Minh Sát và thực hành.
Bây giờ chúng ta đi sâu hơn vào
Vipassanā. Mức tiến bộ của Thiền Minh Sát được phân chia thành bảy giai đoạn
hay gọi là bảy giai đoạn thanh tịnh “visuddhi”. Thiền sinh sẽ tiến triển từ
giai đoạn thanh tịnh này đến giai đoạn thanh tịnh khác, không bỏ qua giai đoạn
nào. Bạn phải đi từng bước từ khởi đầu cho đến cuối cùng. Trong những từng mức
này thiền sinh kinh nghiệm nhiều loại tuệ giác khác nhau. Nhiều loại tuệ giác
khác nhau khởi sinh trong tâm thiền sinh khi thiền sinh tiến triển theo bảy
giai đoạn thanh tịnh này.
Giai đoạn đầu tiên là Giới Tịnh. Trong tầng mức này, bạn chưa
hành Thiền Minh Sát mà bạn chỉ cố gắng thanh tịnh giới. Vì giới thanh tịnh là
nền móng vững chắc bạn xây dựng định và tuệ. Nếu giới không trong sạch thì
không thể đạt được sự định tâm. Khi không có định tâm bạn không thể nào xuyên
thấu bản chất sự vật. Do vậy giới thanh tịnh là một bước rất quan trọng để
thành công trong việc hành Thiền Minh Sát.
Trong phần giới luật có giới của các vị
Sư. Trong thanh tịnh đạo chỉ nói đến giới luật của nhà Sư mà không nói đến giới
luật của cư sĩ. Thanh Tịnh Đạo là một cuốn sách viết cho các nhà Sư bởi một nhà
Sư khác nên tác giả không nói đến giới luật của người cư sĩ. Ở đây, chúng ta sẽ
đề cập đến giới dành cho người cư sĩ như: năm giới, tám giới … Thiền sinh ít
nhất phải giữ năm giới, nhưng nếu giữ tám giới thì đạt được nhiều phước báu
hơn, lợi ích hơn vì khi giữ tám giới thiền sinh có nhiều thời gian để hành thiền.
Như vậy, giữ tám giới tốt hơn giữ năm giới. Nếu bạn không giữ tiền trong lúc
hành thiền thì bạn có thể giữ mười giới, nhưng ngày nay giữ mười giới rất khó
khăn. Tóm lại, bạn có thể giữ năm giới, tám giới hay mười giới để thanh tịnh
giới luật của mình.
Vậy, bước đầu tiên Giữ Giới chẳng khác
nào bước dự bị cho việc hành thiền.
Giai đoạn thứ hai là Tâm Tịnh. Tâm tịnh thật sự có nghĩa là định tâm.
Khi có Cận Định hay đạt các tầng thiền được gọi là tâm tịnh. Nói cách khác, tâm
tịnh là tâm có được Cận Định hay các tầng thiền.
Một thiền sinh đạt được Cận Định và nhập
vào các tầng thiền tức là người này hành Thiền Định. Một người hành Thiền Định
mà đạt được Cận Định và vào các tầng thiền thì gọi là tâm tịnh. Chú Giải
định nghĩa tâm tịnh là Cận Định hay định trong các tầng thiền.
Đối với những người hành Thiền Định
trước rồi mới qua Thiền Minh Sát, thì sau khi họ đạt Cận Định hay đạt các tầng
thiền, họ sẽ chuyển qua hành Thiền Minh Sát. Đây gọi là người hành Thiền Định
rồi qua Thiền Minh Sát. Đối với những người không hành Thiền Định trước mà đi
thẳng vào Thiền Minh Sát thì gọi là người hành Thiền Minh Sát khô.
Đối với người hành Thiền Minh Sát không
qua Thiền Định trước thì tâm tịnh là Sát Na Định. Sát Na Định tương đương với
Cận Định. Khi đạt đến Cận Định thì người hành thiền giữ tâm trên đề mục một
cách vững vàng, và lúc bấy giờ năm chướng ngại tạm thời vắng bóng. Như vậy, Cận
Định có thể chế ngự được năm chướng ngại (tham, sân, bất an hối hận, dã dượi
buồn ngủ, hoài nghi) và có thể giữ tâm trên đối tượng một cách vững chắc. Tương
tự như thế, Sát Na Định cũng giữ tâm trên đối tượng và chế ngự được năm chướng ngại.
Do đó, Cận Định và Sát Na Định tương đương với nhau. Chỉ có một sự khác biệt
giữa Cận Định và Sát Na Định là: Cận Định chỉ chú tâm trên một đề mục duy nhất
trong khi Sát Na Định có thể chú tâm trên rất nhiều đề mục từng sát na một. Đề
mục của Sát Na Định thay đổi và khác nhau từng sát na, nhưng đề mục của Cận
Định trước sau chỉ là một.
Chú Giải và Phụ Chú Giải chỉ đơn giản
nói là Tâm Tịnh, nhưng trong Phụ Chú Giải của Trung Bộ Kinh (Majjima
Nikāya) nói rằng: Sát Na Định là yếu tố thiết yếu trong Thiền Minh Sát. Điều
này có nghĩa là nếu không đạt được Sát Na Định thì việc hành thiền của bạn sẽ
không đạt kết quả.
Bởi vậy, Hòa thượng Mahāsi đã giảng giải
cho những người hành Thiền Minh Sát khô, là những người không có Thiền Định
trước, rằng: Tâm Tịnh có nghĩa là Sát Na Định. Như vậy khi một người
hành Thiền Minh Sát đạt được Sát Na Định thì người đó gọi là đã có tâm
tịnh.
Trong suốt thời gian hành Thiền Minh
Sát, khi tâm bạn chỉ ở trên đề mục quán sát và không lang thang đi nơi khác thì
lúc đó bạn đạt được Sát Na Định. Khi đạt được Sát Na Định, tâm không bị chi
phối bởi phiền não, nên bạn bắt đầu thấy sự vật một cách rõ ràng. Bạn sẽ phân
biệt được thế nào là Vật Chất, thế nào là Tâm. Cũng vậy, bạn sẽ thấy được “đặc
tính”, “chức năng”, “sự biểu hiện” hoặc “nguyên nhân gần” của đối tượng.
Như vậy, khi bạn có thể thấy đối tượng
một cách rõ ràng, khi bạn có thể phân biệt được đây là Vật Chất, đây là Tâm.
Khi bạn thấy đặc tính, chức năng hoặc sự biểu hiện, hay nguyên nhân gần một
cách rõ ràng thì lúc đó bạn đạt được Kiến Tịnh.
Kiến Tịnh có nghĩa là khi bạn quán sát đối tượng
bạn chỉ thấy đây là đối tượng và đây là tâm quán sát đối tượng. Đối tượng
chỉ là đối tượng, tâm chỉ là tâm. Chỉ có các yếu tố này sinh diệt mà thôi,
ngoài ra chẳng có gì cả. Chẳng có gì bạn có thể gọi là linh hồn, tự ngã (attā)
cả. Khi đạt đến tầng mức này bạn có thể loại trừ tà kiến, loại trừ sự hiểu lầm
rằng: có một linh hồn, tự ngã attā thêm vào Vật Chất và Tâm này. Ở tầng mức này
được gọi là Tuệ Phân Biệt Vật Chất và Tâm.
Sau khi thấy được Vật Chất và Tâm rõ
ràng, chính xác thì bạn sẽ thấy nguyên nhân của Vật Chất và Tâm. Bạn sẽ thấy có
cái gì đó là nhân của Tâm và cái gì đó là nhân của Vật Chất. Ở tại tầng mức này
tâm hoài nghi được chế ngự - hoài khi rằng: không biết trong quá khứ có ta
không hoặc trong tương lai sẽ có ta không, đồng thời cũng có sự nghi ngờ về
Phật, Pháp, Tăng và sự thực hành.
Ở tầng mức này, bạn đã đã đạt
được Tuệ Phân Biệt Nguyên Nhân. Nguyên nhân ở đây có nghĩa là
nhân thật sự và đôi khi là những điều kiện. Ở tầng mức này, bạn thấy được các
điều kiện hay các duyên của sự vật; bởi vì có Vật Thấy thì mới có Thức Thấy, có
vật để ghi nhận thì mới có tâm ghi nhận v.v… Ở tầng mức này bạn thấy rõ ràng
nguyên nhân của sự vật.
Khi bạn đạt được giai đoạn này gọi
là Đoạn Nghi Tịnh. Người đạt được tầng mức này gọi là Cuḷa-Sotāpanna (Tiểu
Tu Đà Hoàn). Người tiểu Tu Đà Hoàn không phải là Tu Đà Hoàn thật sự, nhưng
người này giống một Tu Đà Hoàn. Người đắc quả Tu Đà Hoàn không còn tái sinh vào
bốn cảnh khổ trong tương lai. Người tiểu Tu Đà Hoàn không bị rơi vào bốn ác đạo
trong kiếp kế tiếp nếu người đó không lui sụt khỏi tầng mức này, nghĩa là người
đó tiếp tục tinh tấn hành thiền không thối chuyển. Vì vị này không rơi vào bốn
ác đạo trong kiếp kế tiếp nên được gọi là tiểu Tu Đà Hoàn.
Sau khi thấy được nguyên nhân của Vật
Chất và Tâm, thiền sinh sẽ thấy được ba đặc tính của sự vật. Ở giai đoạn, này
thiền sinh lấy đối tượng là một nhóm và quán sát để thấy rõ chúng là Vô Thường,
khổ, vô ngã. Tầng mức này được gọi là Kiến Tịnh. Ở giai đoạn này,
thiền sinh trú trong nhiều đối tượng và thấy rõ những đối tượng này là Vô
Thường, khổ, vô ngã.
Sau khi thấy được ba đặc tính Vô Thường,
khổ, vô ngã của Vật Chất và Tâm, thiền sinh sẽ thấy rõ ràng sự sinh khởi, hoại
diệt hay sự đến và đi của Vật Chất và Tâm. Thiền sinh sẽ thấy sự sinh và diệt
của những đối tượng cá biệt, không xem đối tượng là một khối tổng thể mà tách
chúng thành những đối tượng cá biệt. Khi thấy sự sinh và diệt của Vật Chất và
Tâm, sự tập trung của thiền sinh trở nên mạnh mẽ. Khi sự tập trung ngày càng
mạnh mẽ và mãnh liệt, thiền sinh bắt đầu trải nghiệm cái gọi là “tùy phiền não”
(tuệ giác khiếm khuyết) của Thiền Minh Sát. Đến giai đoạn này, thiền sinh sẽ
kinh nghiệm ánh sáng, kinh nghiệm hỉ, cảm thấy an lạc, thanh tịnh và một đức
tin mạnh mẽ, tinh tấn cũng mạnh hơn, sau đó kinh nghiệm lạc. Lúc này sự hiểu
biết của thiền sinh rất sắc bén, tâm chánh niệm rất vững chắc, không cần nhiều
cố gắng chánh niệm vẫn tốt. Cuối cùng thiền sinh bị dính mắc vào tuệ giác bất
toàn này.
Khi tuệ giác này mới phát sinh, thiền
sinh muốn ôm giữ chúng và bắt đầu dính mắc vào mười tuệ giác bất toàn hảo của
tuệ giác Thiền Minh Sát. Khi trải qua kinh nghiệm này, thiền sinh nghĩ rằng:
mình đã đi đến đích nên họ dừng lại và không tiến thêm nữa. Đây không phải là
mục tiêu tối hậu của hành trình. Họ không biết rằng: đây chỉ là “hệ quả phụ”
của những kinh nghiệm trong khi hành thiền nên thiền sinh dừng lại, vì dừng lại
nên không thể tiến xa hơn.
Tầng mức tuệ giác này được gọi là Đạo
Phi Đạo Tri Kiến Tịnh. Có nghĩa là hiểu biết đâu là đúng đâu là sai, đâu là con
đường đúng đâu là con đường sai.
Sau khi vượt qua những chướng ngại này
thiền sinh sẽ tiếp tục thấy sự sinh diệt của Vật Chất và Tâm. Đến tầng mức này
sự thấy, sự biết của thiền sinh rõ ràng hơn. Bây giờ thiền sinh thấy được sự
sinh và diệt của Vật Chất và Tâm và khi gặp phải mười phiền não này họ sẽ cố
gắng vượt qua và sau đó tâm họ chỉ chú tâm vào sự sinh diệt của đối tượng mà
thôi.
Chú tâm vào sự sinh diệt của đối tượng
và hiểu biết rõ ràng hơn. Đây là hai tầng mức của tuệ giác thấy được sự sinh
diệt. Có hai tầng mức của Tuệ Sinh Diệt, tuệ yếu và tuệ mạnh. Ở giai đoạn
tuệ yếu thì sự thấy biết của thiền sinh chưa đủ mạnh nên các tùy phiền não xen
lấn vào. Khi thiền sinh đã chế ngự được những tùy phiền não này thì sự thấy
biết của họ trở nên mạnh mẽ hơn. Sau khi vượt qua những tùy phiền não rồi,
thiền sinh đến giai đoạn thứ hai của tuệ này, lúc đó thấy biết trở nên mạnh mẽ,
thiền sinh sẽ thấy rõ ràng hơn sự sinh diệt của đối tượng.
Sau khi có được tuệ giác này thiền sinh
tinh tấn tiếp tục hành thiền. Một tuệ giác khác lại khởi sinh, đó là Tuệ
Diệt. Ở tuệ giác mới này thiền sinh chỉ thấy được sự diệt và sự biến mất
của đối tượng. Thiền sinh không cố gắng thấy sự sinh nữa, họ thấy được hay hiểu
được sự diệt hay sự chấm dứt của đối tượng mà thôi. Ở tầng mức của tuệ giác
này, khi quán sát bất kỳ đối tượng nào thiền sinh chỉ thấy sự diệt mà thôi.
Khi thiền sinh chỉ còn thấy sự diệt của
bất kỳ đối tượng nào mà họ chú tâm đến thì thiền sinh đi đến một trạng thái tâm
khác, đó là đối tượng thật là đáng sợ, đối tượng thật đầy nguy hiểm bởi vì
chúng không thể tồn tại lâu dài. Mỗi khi thiền sinh quán sát chúng chúng liền
biến mất ngay. Chúng ta cần lưu ý là thấy sự sinh diệt của đối tượng là đáng sợ
chứ không phải là sợ hãi.
Tiếp theo thiền sinh đến giai đoạn thấy
được những lỗi lầm, những khiếm khuyết của Vật Chất và Tâm. Sau khi đã có được
tuệ giác thấy Vật Chất và Tâm đáng sợ, thiền sinh tiến đến một bước nữa là thấy
Vật Chất và Tâm có rất nhiền lỗi lầm khiếm khuyết. Sau khi thấy được những
khiếm khuyến của Vật Chất và Tâm, thiền sinh thấy Vật Chất và Tâm thật đáng
chán, không đáng bám víu, đánh tan ảo tưởng sai lầm về Vật Chất và Tâm. Điều này
khiến cho thiền sinh không còn hứng thú và thiền sinh quay lưng làm ngơ với Vật
Chất và Tâm, thiền sinh trở nên không còn dính mắc, không còn thiết tha với Vật
Chất và Tâm. Bây giờ thiền sinh chỉ còn thấy sự biến mất, sự diệt, sự lụi tàn,
sự tan biến của mọi sự vật trên thế gian.
Tóm lại, sau khi thiền sinh thấy Vật
Chất và Tâm thật đáng sợ và nguy hiểm, nhiều khiếm khuyết lỗi lầm thì thiền
sinh cảm thấy không còn thiết tha gì với chúng nữa. Vì không còn thiết tha đến
Vật Chất và Tâm, không còn thiết tha gì mọi sự vật trên thế gian nên thiền sinh
muốn thoát khỏi chúng. Thiền sinh muốn thoát khỏi Vật Chất và Tâm vì khi chú
tâm vào bất kỳ đối tượng Vật Chất và Tâm nào thiền sinh đều thấy chúng tan biến
và diệt mất. Thiền sinh muốn thoát khỏi Vật Chất và Tâm có nghĩa là muốn thoát
khỏi phiền não.
Tuệ giác thứ chín là Muccitukamyatā-ñaṇa. Có hai cách viết tuệ giác
này. Chữ trên là cách thứ nhất, cách viết thứ hai là Muñcitakamyatā-ñaṇa. Tùy
theo cách viết mà có nghĩa hơi khác nhau. Khi viết chữ Muccitakamyatā-ñaṇa có
nghĩa là muốn tự do, muốn trốn chạy, muốn thoát khỏi. Khi viết với chữ
Muñcita-kamyatā-ñaṇa nghĩa là muốn vất bỏ.
Hai nghĩa trên thật ra cũng giống nhau.
Khi chúng ta không có hứng thú, không còn thiết tha, không màng đến cái gì thì
chúng ta muốn vất bỏ nó. Như vậy muốn thoát khỏi hay vất bỏ cũng đều đúng cả.
Khi muốn thoát khỏi hay muốn vất bỏ Vật
Chất và Tâm, thiền sinh tiếp tục quán sát Vật Chất và Tâm nhiều lần để thấy rõ
chúng là Vô Thường, khổ, vô ngã, không có linh hồn, không có tôi ta. Khi thiền
sinh tiếp tục quán sát Vật Chất và Tâm, thấy rõ chúng Vô Thường, khổ, vô ngã,
không có tôi ta nhiều nhiều lần hơn nữa thì kết quả là thiền sinh sẽ đạt đến
một tầng mức khác gọi là Tuệ Xả Hành.
Khi đạt đến giai đoạn này thiền sinh
không cần nỗ lực chánh niệm vào đề mục nữa vì tâm họ luôn luôn ở trên đề mục.
Có nghĩa là tâm chánh niệm hiện diện trên đề mục một cách tự động. Lúc bấy giờ
thiền sinh chẳng cần quan tâm gì đến chánh niệm, chẳng cần một sự cố gắng nào
vì chánh niệm tự động đến không cần mời gọi. Đó gọi là xả đối với Vật Chất và
Tâm.
Ở tầng mức này tâm thiền sinh rất
an lạc tĩnh lặng. Tâm thiền sinh đứng “ở giữa”. Đứng ở giữa có nghĩa là khi có
một đối tượng đáng sợ đến với thiền sinh, thiền sinh không cảm thấy sợ hãi; khi
có đối tượng đẹp đẽ hấp dẫn đến, thiền sinh cũng không bị lôi cuốn, hay Tham Ái
dính mắc vào vật đó, tâm thiền sinh đứng ở giữa. Tuy nhiên, ở trạng thái này
thiền sinh vẫn có sẵn một sự tinh tấn tự nhiên, và tâm chánh niệm luôn luôn
khắng khít với đề mục. Đây là trạng thái tâm quân bình trước tất cả các pháp
hành.
Khi tuệ xả với các pháp hành chín muồi
thì thiền sinh đạt đến Tuệ Thuận Thứ.
Ở tầng mức này thiền sinh gần
thấy Niết Bàn. Tuệ này được gọi là Tuệ Thuận Thứ vì nó nằm giữa tuệ trước và
tuệ sau. Sau khi đạt được tuệ thuận thứ thiền sinh bước sang Tuệ Chuyển
Tánh.
Từ Tuệ Sinh Diệt đến Tuệ Thuận Thứ gồm
có chín tuệ. Chín tuệ này gọi là Đạo Tri Kiến Tịnh hay
chỉ cần nói ngắn gọn Tịnh Đạo. Sau Tuệ Thuận Thứ đến Tuệ Chuyển
Tánh. Tuệ Chuyển Tánh là tuệ cuối cùng của đời sống thế tục. Vào sát na Tuệ
Chuyển Tánh sinh khởi, thiền sinh gần Giác Ngộ vì đây là sát na cuối cùng của
đời sống thế tục, cho nên tuệ này được gọi là chuyển tánh, có nghĩa là nó vượt
từ phàm qua thánh. Tuệ giác này lấy Niết Bàn làm đối tượng trong khi những tuệ
giác trước đây lấy Vật Chất và Tâm (pháp hữu vi) làm đối tượng.
Tuệ Chuyển Tánh không nằm trong giai đoạn thứ sáu của
bảy giai đoạn thanh tịnh, nhưng vì nó nằm trong tiến trình của Vipassanā nên
gọi nó là Vipassanā. Tuy nhiên, nếu nói một cách chính xác hơn thì Tuệ Chuyển
Tánh không phải là vipassanā vì ở tuệ này tâm không lấy Vật Chất và Tâm (Ngũ
Uẩn) làm đối tượng mà lấy Niết Bàn làm đối tượng. Như vậy, nói chính xác thì
tuệ này không thuộc về những giai đoạn thanh tịnh trước đây, cũng không nằm
trong giai đoạn sắp đến, nó nằm giữa các giai đoạn vipassanā. Vì nó nằm trong
tiến trình vipassanā nên gọi nó là vipassanā.
Tuệ xả hành, Tuệ Thuận Thứ, Tuệ Chuyển
Tánh là những tuệ giác dẫn đến việc nhập vào dòng. Nhập vào dòng có nghĩa là
dòng thánh hay Đạo. Bởi vì sát na kế tiếp là sát na Đạo. Ba tuệ giác này được
gọi là dẫn vào Đạo hay dẫn vào dòng nên chúng có tên là tuệ đưa đến nhập lưu.
Tuệ kế tiếp là Đạo Tuệ. Đạo tuệ là sát na chỉ vào
lúc Giác Ngộ, tại sát na này thiền sinh Giác Ngộ lý Tứ Diệu Đế, tâm lấy Niết
Bàn làm đối tượng. Ngay sau Đạo tuệ là Quả Tuệ, đó là quả của đạo. Tiếng
Pāḷi gọi Quả tuệ là Phala. Sau Quả tuệ độ vài sát na khởi sinh trong tâm thiền
sinh là Tuệ Hồi Khán. Có nghĩa là thiền sinh nhìn lại để xét xem những gì mình
đã đạt được và những phiền não còn lại.
Thông thường, sau khi đạt được Tuệ Hồi
Khán, thiền sinh xét lại những phiền não nào mình đã loại trừ và phiền não nào
chưa loại trừ. Có năm loại Tuệ Hồi Khán: Hồi Khán hay Nhìn Lại Đạo,
Nhìn Lại Quả, Nhìn Lại Niết Bàn, Nhìn Lại Phiền Não Đã Loại Trừ, Nhìn
Lại Phiền Não Còn Tồn Tại.
Giai đoạn thanh tịnh thứ bảy là Tri
Kiến Tịnh để chỉ cho Đạo Tuệ.
Như vậy có bảy giai đoạn thanh tịnh cần
trải qua hay nói cách khác có mười sáu tầng tuệ để đắc đạo quả.
1. Tuệ Phân
Biệt Vật Chất và Tâm.
2. Tuệ Thấy
Nhân (Tuệ nhân duyên)
3. Tuệ Thấy
Rõ Tam Tướng.
4a. Tuệ Sinh Diệt Yếu.
4b. Tuệ Sinh Diệt Mạnh.
5. Tuệ Diệt.
6. Tuệ Sợ Hãi.
7. Tuệ Thấy Lỗi
của Vật Chất và Tâm.
8. Tuệ Nhàm Chán
Vật Chất và Tâm.
9. Tuệ Muốn Giải
Thoát.
10. Tuệ Suy Tư.
11. Tuệ Hành Xả.
12. Tuệ Thuận
Thứ.
13. Tuệ Chuyển
Tánh.
14. Đạo Tuệ.
15. Quả Tuệ.
16. Tuệ Hồi Khán.
Vậy là có mười sáu tầng tuệ liên quan
đến sự hành Thiền Minh Sát.
Trong số mười sáu tầng tuệ này, Vi Diệu
Pháp Toát Yếu (Abhidhammatthasangaha) chỉ nói có mười tầng tuệ được gọi là Tuệ
Minh Sát. Nghĩa là từ tầng Tuệ Thấy Rõ Tam Tướng đến Tuệ Thuận Thứ mới được gọi
là Tuệ Minh Sát. Nói một cách chính xác thì Tuệ Chuyển Tánh không thuộc trong
các Tuệ Minh Sát. Trong Chú Giải nói hai tuệ đâu tiên là Tuệ Phân Biệt Vật Chất
và Tâm và Tuệ Thấy Rõ Nhân (Tuệ Nhân Duyên) cũng được gọi là Minh Sát Tuệ. Như
vậy theo Chú Giải ta có thể nói có mười ba tầng Tuệ Minh Sát, từ tầng Tuệ Phân
Biệt Vật Chất và Tâm đến Tuệ Thuận Thứ. Tuệ thứ mười bốn là Đạo Tuệ không phải
là Tuệ Minh Sát cho nên nói tuệ này ở trên hoặc vượt xa hơn Tuệ Minh Sát. Tuệ
thứ mười lăm cũng không phải là Tuệ Minh Sát.
Vậy là trên lý thuyết, chúng ta đã biết
được các giai đoạn thanh tịnh và các loại tuệ khác nhau sinh khởi trong suốt
quá trình hành Thiền Minh Sát (vipassanā). Như vậy phần còn lại là phần của
chúng ta, chúng ta phải thật sự kinh nghiệm các tuệ này thông qua việc hành
Thiền Minh Sát (vipas-sanā).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét