PHÁP HÀNH
Khổ thọ là cái khổ thông thường, như được cảm giác trong các oai nghi. Người hành thiền cần phải quán khổ thọ trước, bởi vì nó dễ thấy và lúc nào cũng hiện hữu trong bốn oai nghi. Khi hành giả nhận rõ khổ, hành giả sẽ nhận ra Danh-Sắc bị khổ thọ này buộc phải thay đổi oai nghi suốt ngày vậy.
Hành khổ là cái khổ được mang qua oai nghi mới do buộc phải thay đổi từ oai nghi cũ. Hành khổ này cũng gồm các hoạt động khác cần phải làm suốt ngày để duy trì thân thể, như là ăn uống, thở vào, thở ra, v.v...
Khổ tướng là những đặc tánh của Danh-Sắc. Chúng có cùng những đặc tánh như mọi hiện hữu là vô thường, khổ, vô ngã. Loại khổ này chỉ có thể nhận ra bằng tuệ minh sát. Tam tướng hay ba đặc tánh được thấy rõ ở Tuệ thứ tư trong 16 Tuệ minh sát, là Sanh Diệt Tuệ (Udayabbayañāṇa).
Khổ Ðế là Thánh đế thứ nhất trong Tứ Thánh Ðế. Khổ Ðế ở đây là Danh và Sắc. Khi Khổ Ðế được chứng ngộ, các phận sự khác của Tứ Thánh Ðế cũng được chứng ngộ.
I. PHÁP HÀNH TÓM TẮT
1. Bốn oai nghi
Chúng ta quán sát Danh và
Sắc trong bốn oai nghi -- đi, đứng, ngồi, nằm.
Ðây là những oai nghi căn
bản hay oai nghi chính như đã được mô tả trong Kinh Ðại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna).
Chúng ta khởi sự với việc quán chỉ nội sắc mà thôi, bởi vì sắc dễ nhận ra hơn
danh. Có ba lý do khiến sắc dễ thấy hơn là: sắc "thô" còn danh
"tế". Bốn oai nghi luôn luôn hiện hữu (các đối tượng của danh như
nghe, thấy,... chỉ phát sanh từng thời. Dễ dàng thấy khổ trong sắc hơn ở các
đối tượng khác, bởi vì, khi chúng ta quán bốn oai nghi, chúng không thể nào che
án thực tánh khổ được nữa.
2. Các phương tiện dùng
trong pháp hành
Ðó chính là Tinh tấn (ātāpi),
Chánh niệm (sāti), Tỉnh giác (sampajañña), Tác ý chân chánh (yonisomanasikāra),
Quán sát pháp hành (sikkhati).
a) Tinh tấn là
sự nhiệt tâm tiêu diệt phiền não. Không có tinh tấn, ta không thể nào nhận thức
được toàn bộ đối tượng như sắc ngồi. Khi tâm phóng khỏi sát-na hiện tại, tinh
tấn cùng với chánh niệm, tỉnh giác sẽ đưa nó trở lại.
b) Chánh niệm là
niệm trong Tứ Niệm Xứ, chú tâm đến oai nghi ta đang quán sát.
c) Tỉnh giác là
nhận rõ toàn bộ đối tượng đang quán sát, chẳng hạn như biết toàn bộ oai nghi ấy
là sắc ngồi.
d) Tác ý chân
chánh là sự chú tâm trên một đối tượng với hiểu biết chân chánh, chẳng
hạn biết đúng lý do làm việc ấy, hoặc thực tánh của đối tượng ấy là gì ...
"Yoniso" nhắc cho ta biết rằng, khi ta ăn uống, tắm rửa, đi vệ
sinh, hay làm những việc gì khác, chỉ là để chữa khổ chứ không phải tìm lạc
thú. Yoniso cũng cho ta biết oai nghi cần phải thay đổi để
chữa khổ.
e) Quán sát pháp
hành cho ta biết khi pháp hành không được thực hiện đúng hoặc khi vuột
khỏi sát-na hiện tại.
3. Trung Ðạo (Majjhimā-pātipadā)
Trung Ðạo hủy diệt hay
diệt trừ các thiên kiến như ưa - ghét, tham - sân, ... và rất quan trọng trong
pháp hành này. Nếu có chánh niệm và tỉnh giác trong sát-na hiện tại thì các
thiên kiến ấy không thể nảy sanh.
Ðó là lý do tại sao chúng
ta:
- Chữa khổ bằng cách thay
đổi oai nghi, bởi vì khổ buộc sắc phải thay đổi. Ở đây, hành giả phải có tác ý
chân chánh để ngăn phiền não không cho lẻn vào. Như vậy, nếu hành giả có yoniso khi
thay đổi oai nghi, và có sự quán sát pháp hành thường xuyên, hành giả sẽ ghi
nhận kịp thời sự có mặt của phiền não. Chẳng hạn, khi chúng ta đang ngồi và khổ
chợt phát sanh, chúng ta không thích cái khổ ấy và muốn chuyển sang oai nghi
mới. Khi ấy tác ý chân chánh và sự quán sát pháp hành sẽ làm việc và nhắc chúng
ta chỉ nên thay đổi oai nghi nếu khổ buộc chúng ta phải thay đổi.
Chúng ta không nên ngồi
cho qua cơn đau bởi vì điều này tạo ra phiền não, tà kiến nghĩ rằng
"ta" có thể kiểm soát được cơn đau, mà thực ra Danh-Sắc không kiểm
soát được, chúng là vô ngã - anatta. Cũng có một số hành giả cố
gắng ngồi lâu hơn và ngồi cho qua cơn đau để thấy khổ. Nhưng khổ đó không thực,
nó là cái khổ nhân tạo. Một số khác lại cố gắng ngồi lâu hơn để có định, bởi vì
họ nghĩ rằng như vậy tuệ sẽ nảy sanh, song làm vậy chỉ tạo thêm phiền não. Hãy
nhớ rằng vipassanā là luyện tâm chứ không phải luyện thân. Nếu
tâm không chánh thì thân cũng vậy. Chẳng hạn, nếu tâm nghĩ rằng ngồi trong thế
kiết già mới giúp ta thấy thực tánh - tâm sẽ buộc thân phải ngồi kiết già.
- Ðừng tìm an lạc trong
bất kỳ oai nghi nào. Ðừng cảm thấy rằng một oai nghi nào đó là tốt hơn oai nghi
khác, bởi vì mọi oai nghi đều không có thực thể, tức là đều vô thường, khổ và
vô ngã.
- Ðừng tìm sự vắng lặng
(định) trong thiền. Sự vắng lặng hay định ấy sẽ đưa chúng ta đến chỗ tin rằng
có một tự ngã đang kiểm soát và dẫn ta đến an lạc. Nhưng hoàn toàn không có
lạc, chỉ có sự giải thoát khỏi khổ, và chúng ta không thể nhận ra điều này nếu
không thấy khổ. Khổ Ðế là một sự thực, chứ không có "Lạc Ðế", bởi vì
lạc cũng vô thường và cũng chính là khổ.
- Ðừng thực hành để mong
sở đắc, mong giác ngộ hoặc có trí tuệ. Chỉ nên thực hành theo những nguyên tắc
chuẩn xác của Tứ Niệm Xứ. Cho dù ước muốn đạt đến Niết Bàn hay trở thành một vị
A-la-hán là cao thượng, hành giả cũng phải dập tắt tham muốn đó. Nếu không,
Niết Bàn thực sự khó mà đạt đến.
- Ðừng thực hành với ý
nghĩ rằng ta sẽ trở thành một thiền sư. Ðiều này sẽ khiến cho tham dục phát
sanh và ngăn không cho trí tuệ khởi lên. Mục tiêu duy nhất trong việc thực hành
là để đoạn khổ.
II. THỰC HÀNH
Việc thực hành là để duy
trì chánh niệm trên mọi oai nghi -- đi, đứng, ngồi, nằm. Nếu oai nghi đang sử
dụng là oai nghi ngồi, "ba danh" -- tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác
-- làm nhiệm vụ biết oai nghi ngồi, và biết rằng oai nghi ấy là sắc ngồi.
Ba danh (chứ không phải
"Ta") quán sắc ngồi cũng như đang xem một diễn viên trên sân khấu
vậy. Bạn chỉ làm người xem, khách quan với những gì diễn viên đang đóng trên
sân khấu, không cố gắng đạo diễn sự diễn xuất của họ. Xem một vở kịch cũng như
quán sát-na hiện tại, không quan tâm đến quá khứ hay vị lai. Hành giả cần phải
thực hành như thể đang xem một vở kịch là vậy. Rồi, khi đang quán sắc ngồi, cái
đau sẽ nảy sanh và hành giả sẽ biết rõ sắc ngồi khổ. Ðây là khổ thọ. Nhưng đừng
quán khổ thọ. Pháp hành này là niệm thân (kāya) chứ không phải thọ (vedāna).
Nhờ quán sắc ngồi khổ thường xuyên trong sát-na hiện tại, đến khi cần thay đổi
oai nghi, hành giả sẽ thấy thực tánh khổ trong sắc ngồi. Sự kiện là vậy, bởi vì
khổ thọ phát sanh từ sắc và Danh-Sắc là khổ đế.
Ðối với sắc đứng, sắc đi
cũng nên hiểu như vậy. Chúng phải được quán sát tựa như đang xem một người nào
đó đang hoạt động mà chúng ta không có quyền kiểm soát họ. Trong khi sắc là đối
tượng, thì minh sát là trách nhiệm của tâm (danh). Vì thế tâm phải tỉnh thức
trong sát-na hiện tại để thấy với trí tuệ. Thay vì cố gắng để thấy thực tánh,
tâm phải quán sát thực tánh (chẳng hạn như danh nghe, danh thấy,...) khi nó
phát sanh. Hành giả chỉ giản dị quán những gì đang diễn ra. Bất kỳ một cố gắng
nào nhằm kiểm soát tâm đều có nghĩa là chúng ta muốn thấy thực tánh, đây là
phiền não, nó đưa chúng ta ra khỏi Trung Ðạo và sát-na hiện tại.
Tinh tấn, chánh niệm,
tỉnh giác cùng làm việc -- quán Danh-Sắc -- chung với nhau. Nếu có quá nhiều
chánh niệm thì sẽ làm suy yếu tỉnh giác. Hành giả phải ghi nhận điều này. Sự
ghi nhận này được gọi là sikkhàti -- quán sát pháp hành. Khi sikkhàti quán thấy
sự mất quân bình này, hành giả phải cố gắng điều chỉnh lại, tức là phải có tỉnh
thức nhiều hơn. Khi khổ được cảm nhận, oai nghi được thay đổi bởi vì khổ buộc
nó phải thay đổi (thay đổi tự nhiên như khi ta đang hoạt động bình thường,
nhưng ở đây được thực hiện với chánh niệm, tỉnh giác).
Chính với "yoniso" [1] mà chúng ta ghi nhận
được sự đau nhức buộc sắc ngồi phải thay đổi sang oai nghi khác. Khi oai nghi
được thay đổi, cái đau ấy cũng được chuyển sang oai nghi mới, và "yoniso" ghi
nhận rõ oai nghi mới đang chữa khổ cho oai nghi cũ. Ðiều này rất cần thiết bởi
vì hầu hết hành giả sơ cơ đều không thích oai nghi cũ và nghĩ rằng oai nghi mới
sẽ làm cho họ thoải mái hơn.
Nhờ làm như vậy chúng ta
sẽ không cảm thấy sân đối với oai nghi cũ và tham đối với oai nghi mới, bởi vì
tác ý chân chánh biết rằng việc thay đổi là để chữa khổ ở oai nghi cũ. Trong
pháp hành này, "yoniso" được nhấn mạnh, bởi lẽ tác ý
chân chánh thích đáng sẽ dẫn đến sự thấy rõ khổ (thọ khổ và hành khổ -- xem các
loại khổ).
Trú trong sát-na hiện tại
là điều rất khó, do đó việc tự vấn như thế này có thể rất hữu ích:
"Cái gì đang
đi?" -- "Sắc đang đi."
"Tại sao nó phải
đi?" -- "Ðể chữa khổ từ oai nghi cũ."
"Cái gì đang
ngồi?" -- "Sắc ngồi", v.v...
(Việc hỏi thầm này làm
nhiệm vụ như "yoniso", giúp cho tâm phát triển sự tỉnh thức -
chánh niệm, tỉnh giác).
Khi ta hỏi "cái gì
đang ngồi?", tỉnh thức phát sanh khiến ta trả lời "sắc ngồi".
Tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác có cùng đối tượng (Danh-Sắc) và vì vậy chúng
làm phận sự chung với nhau. Chánh niệm biết oai nghi, cách ta ngồi, và tỉnh
giác biết rằng đó là sắc ngồi, v.v... Song không phải chánh niệm đi trước rồi
tỉnh giác mới theo sau. Chánh niệm và tỉnh giác cùng hoạt động một lần.
Pháp hành đúng là,
"hiện sắc đang ngồi" hay "sắc ngồi", thay vì "hiện ta
đang ngồi", tức là lấy "ta" ra. Vấn đề ở đây là tiến trình nhận
biết oai nghi cũng giống như trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, ngoại trừ tà
kiến nghĩ rằng "ta" đang ngồi được loại ra vậy thôi.
Thông thường để diễn tả
hay định rõ tính chất của sự tỉnh thức, chúng ta hay nghe những từ "cảm
nhận", "biết", "thấy" (bằng tâm), "quán
sát", "ý thức về" sắc ngồi, sắc đứng, v.v... Tất cả các từ này
đều đúng cả. Thực ra, từ tỉnh thức có thể được mô tả như là cái biết
"chúng ta ngồi" là "sắc ngồi", và nó là mấu chốt để giữ cho
pháp hành được thực hiện đúng cách mà thôi.
"Cảm nhận" là cảm
nhận cái cách ta đang ngồi và nhận rõ đó là sắc ngồi. Nó là một loại tỉnh giác
(sampajañña). Tuy nhiên, cần thận trọng về việc cảm nhận này. Nếu ta mắc
vào sự cảm nhận về thân, đặc biệt khi cảm nhận này quá mạnh, nó có thể làm cho
tâm mệt mỏi và đẩy ta ra khỏi sát-na hiện tại. Ðây là thực hành với lòng mong
muốn, và về lâu dài, có thể gây ra những vấn đề thuộc thể chất như là đau ngực,
cảm giác nghẹt thở, v.v... Ðiểm quan trọng ở đây là đừng cố gắng "tạo
ra" sắc ngồi, mà chỉ biết nó. Sắc ngồi đã có sẵn, chỉ tại ta không ý thức
rõ nó. Khi ta ở nhà, ta vẫn cảm nhận việc ta ngồi, nhưng cảm nhận này là phiền
não. Vì vậy, trong pháp hành, ta chỉ cần thay đổi cái "ta ngồi" thành
"sắc ngồi", với trí tuệ tỉnh giác.
Tuy nhiên, chữ "suy
nghĩ" thường tránh dùng để mô tả sự tỉnh thức, bởi lẽ suy nghĩ luôn luôn
kết hợp với khái niệm ngôn từ thuần túy. Sự khác nhau giữa sắc được cảm nhận và
sắc do thuần suy nghĩ có thể được thấy rõ qua ví dụ, chúng ta có thể suy nghĩ,
hình dung đến nước lạnh, nhưng viêïc sờ và nếm nước lạnh lại hoàn toàn khác.
Nước lạnh là một khái niệm thuộc từ ngữ, nhưng biết nó bằng cảm nhận mới thực
sự là biết nước lạnh.
Cũng cần nhớ ý thức toàn
bộ sắc từ đầu đến chân và rằng sắc này là vô tri, tức không biết gì cả, chỉ có
danh biết mà thôi.
Khi đang quán sắc ngồi,
hành giả cũng phải cố gắng ghi nhận xem có ước muốn thấy thực tánh pháp khởi
lên hay không. Nếu hành giả ghi nhận kịp thời ước muốn này, hãy ngưng hành một
lát cho lòng mong ước ấy mất đi. Nếu ước muốn này có mặt, hành giả sẽ không thể
nào thấy thực tánh pháp. Ðức Phật dạy rằng, ta không thể thấy chân lý khi tham
ái có mặt, bởi vì tham ái che án chân lý (sự thực).
Vì vipassanā có
liên quan đến việc diệt trừ phiền não nơi nó khởi sanh nên hành giả cần phải
học để biết xem đối tượng đặc biệt ấy cần phải thấy như là danh hay là sắc. Ðể
xác quyết điều này, hãy xem kỹ đồ hình tóm tắt về12 xứ (ayatana) ở cuối
phần thực hành này.
1. Những nguyên tắc thực
hành
- Ðừng bao giờ quán cả
Danh và Sắc cùng một lúc, chẳng hạn, đừng nghĩ "sắc đi, danh biết".
Một số hành giả nghĩ rằng
họ sẽ có trí tuệ sớm hơn nếu họ có nhiều đối tượng (cả danh và sắc). Tuy nhiên
ước muốn có trí tuệ này chỉ tạo thêm phiền não. Chỉ cần quán sắc trong bốn oai
nghi là đủ.
- Ðừng đi hay ngồi trong
một thời gian quy định. Cần thay đổi khi khổ buộc phải thay đổi.
- Ðừng có cảm giác rằng
"chúng ta" đang "hành thiền" hoặc có một cái gì đó đặc biệt
hay huyền bí về pháp hành. Chúng ta không đi hay ngồi vì thực hành, mà bởi vì
có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ phải đi hay phải ngồi, vậy thôi.
- Ðừng sử dụng những oai
nghi đặc biệt, như ngồi trong thế kiết già, hay đi chậm một cách bất thường, vì
những oai nghi này luôn luôn đi kèm với ước muốn thấy pháp.
- Một số hành giả sơ cơ
có khuynh hướng dễ chán khi thực hành. Những người như vậy cần phải tự sách tấn
mình rằng lý do ta thực hành là để diệt khổ. Nếu thối chí, ta chẳng bao giờ
diệt được khổ, và chắc chắn không thể tránh khỏi cảnh tử sanh bất tận trong
vòng luân hồi (samsāra-cakka).
Ðối với những người chưa
từng hành thiền trước đây cũng gặp phải những vấn đề như phóng tâm... và thường
không thích nó - làm như vậy không phải là Trung Ðạo. Hành giả sơ cơ có thể
thấy khó duy trì tâm định, không thích sống một mình trong nhiều ngày, cũng như
tham ái dễ khởi lên, và họ trở nên bất an. Họ ao ước đạt được sự vắng lặng
(định), hoặc muốn có phỉ lạc, hay được thấy những đối tượng khả ái.
- Khi đau nhức phát sanh
trong sắc ngồi, hành giả cần phải thấy rằng chỉ có "sắc ngồi" khổ,
chứ không phải "ta". Sắc ngồi là sát-na hiện tại, sắc ngồi khổ cũng
là sát-na hiện tại. Hành giả không nên chuyển từ sắc -- ngồi -- khổ là sát-na
hiện tại này sang danh biết cái đau (cái đau hay cảm giác đau là danh, gọi là
khổ thọ). Khi chúng ta chữa khổ là phải chữa ở sắc, chứ không phải ở danh.
- Hành giả luôn luôn có
sự tỉnh thức (chánh niệm - tỉnh giác) với đối tượng Danh và Sắc, song không nên
tập trung vào một phần đặc biệt nào của thân. Hành giả cũng không nên mong mỏi
hay dự đoán trước khổ sẽ phát sanh -- làm vậy sẽ kéo hành giả ra khỏi sát-na
hiện tại. Không nhất thiết phải chờ cho đến khi khổ quá mức hay đến khi thân tê
dại đi mới thay đổi oai nghi. Thực tánh khổ không tùy thuộc vào tính chất
nghiêm trọng của cơn đau. Mỗi lần thấy khổ, dù lớn hay nhỏ, hành giả phải thấy
ra rằng khổ là một sự thực.
- Mặc dù đôi khi chúng ta
nói đến việc "thấy" sắc ngồi, v.v..., song mắt không thực sự được
dùng để thấy hay nhìn vào các sắc. Sự tỉnh thức đối với sắc được thực hiện bằng
tâm - tức là với chánh niệm, tỉnh giác, và đó là trí tuệ.
Còn về việc mắt nên mở
hay nhắm, hoặc khép hờ trong lúc hành, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi cá
nhân. Một số hành giả thích mở mắt, một số thích nhắm, trong khi số khác lại
thích khép hờ.
- Ðối tượng trong lúc
hành là sắc của chính chúng ta, không phải sắc của người khác. Nếu người khác
lọt vào tầm nhìn, không nên coi họ như sắc, mà là như "danh thấy".
- Hành giả chỉ nên nói
chuyện khi cần, chẳng hạn như yêu cầu một điều cần thiết nào đó. Nếu có vấn đề
liên quan đến pháp hành, hành giả chỉ nên trình pháp với thiền sư. Pháp hành là
Bát Thánh Ðạo -- Giới, Ðịnh, Tuệ -- nên Giới cần phải được toàn vẹn, và điều
này đòi hỏi sự yên lặng. Nếu giới không trọn vẹn, thì không thể có định. Không
định thì không thể có tuệ. (Ðịnh ở đây là sát-na định hoặc định trên đối tượng
Danh-Sắc luôn luôn thay đổi). Nói chung, giới cần phải theo đúng Bát Thánh Ðạo.
Hành giả phải đặc biệt thận trọng, không nên tùy tiện để phạm giới.
2. Chú giải
- Trong Visuddhi
Magga (Thanh Tịnh Ðạo) có nói rằng, nếu sắc ngồi được quán sát một
cách chuyên cần, chẳng bao lâu hành giả cũng sẽ thấy được danh với trí tuệ. Do
đó, không nhất thiết phải quán danh cùng với sắc.
- Visuddhi Magga cũng
nói rằng các oai nghi của thân che khuất khổ bởi vì chúng ta không ghi nhận các
oai nghi mình đang sử dụng, do đó, oai nghi mới sẽ che án khổ nơi oai nghi cũ.
Sở dĩ có điều này là vì bình thường chúng ta thay đổi oai nghi mà không tác ý
chân chánh để nhắc chúng ta biết rằng thay đổi oai nghi là để chữa khổ. Do đó,
chúng ta phải thấy khổ trong sắc ngồi, v.v... Việc nhận ra khổ này sẽ hủy diệt
tham và sân, vì có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ ta đang sống
trong sát-na hiện tại.
- Khi làm một điều gì
ngoài bốn oai nghi, chẳng hạn như những công việc trong nhà, hành giả phải sử
dụng yoniso để nhận ra đó cũng là để chữa khổ. Hành giả phải
tác ý chân chánh khi ăn, uống, đi vệ sinh, tắm giặt, rửa chén bát, v.v... Khi
ăn, điều cần ghi nhớ là mỗi miếng ăn được ăn là để chữa khổ. Hành giả có thể
tác ý chân chánh bằng cách ghi nhận mỗi lúc nuốt (thức ăn), xem đó là lúc chữa
khổ; hành giả sẽ nhận ra rằng khổ buộc ta phải ăn, phải nhai, phải nuốt, và ăn
không phải vì tham muốn.
Buổi sáng khi thức dậy,
hãy ghi nhớ rằng oai nghi đang sử dụng là sắc nằm. Rồi, trước khi đứng dậy ghi
nhớ lý do -- chẳng hạn như để uống trà cho tỉnh người hay chữa đói, hoặc chỉ
đơn giản vì không thể ngủ được nữa, và sắc nằm phải đứng dậy vì nó là khổ. Nếu
rửa mặt thì đó cũng là để chữa khổ.
Do luôn sử dụng tác ý
chân chánh như vậy, phiền não sẽ được ngăn chặn không cho lẻn vào qua các cảm
giác. Yoniso cho ta biết chính sắc đang được chăm sóc chứ
không phải "chúng ta".
Hành giả nên dành một
ngày để ghi nhận xem mình đã sử dụng bao nhiêu lần và bao nhiêu cách để chữa
cái khổ của sắc. Ðây là một ý kiến rất hay và kết quả của nó khá ấn tượng.
Trong một ngày, hành giả có thể đuổi muỗi, gãi ngứa, bật quạt máy, uống một ly
nước lạnh, quét kiến ra khỏi liêu cốc, đi vệ sinh, ăn uống, mặc quần áo, tắm
rửa, cạo râu, đánh răng, cắt móng tay, móng chân, giặt quần áo, v.v... Tất cả
những việc làm ấy là để chữa khổ, và trong khi làm những phận sự này, hành giả
không thấy được sắc ngồi,... Sắc ngồi, sắc đứng, v.v... chỉ được quán sát trong
bốn oai nghi mà thôi. Việc quán sắc trong các oai nghi phụ tạo ra nhiều
niệm (sati) và làm suy yếu tỉnh giác (sampajañña). Ở
các oai nghi phụ, chúng ta chỉ nên quán việc chữa khổ là đủ. Ðừng thực hành
niệm chi tiết quá, làm vậy sẽ gia tăng niệm mà suy giảm tỉnh giác.
Hành giả phải thận trọng,
không nên vội vã cho xong việc nhà hay những công việc khác để lo "hành
thiền". Ước muốn hành thiền này là phiền não, bởi vì hành giả muốn thấy
Pháp. Các công việc hàng ngày tạo cho ta cơ hội tốt để thấy được khổ trong sắc.
Hơn nữa, nó cũng giúp ta giảm bớt tâm định nếu có quá nhiều.
- Hành giả chỉ nên làm
những việc nào thực sự cần thiết. Chẳng hạn:
Thay đổi oai nghi. Hành giả thay đổi
từ sắc ngồi sang sắc đứng là để chữa khổ. Ðây là việc làm cần thiết. Nhân (khổ)
phải nảy sanh trước khi hành giả làm một hành động gì. Ðừng đổi sang một oai
nghi nào khác bởi vì hành giả muốn đổi. Hãy chờ cho đến khi khổ buộc phải thay
đổi.
Ăn. Ðây là điều cần
thiết để chữa khổ, vì đói buộc hành giả phải ăn.
Vệ sinh. Ðây cũng là việc
cần thiết, hành giả buộc phải làm những phận sự tự nhiên như tiểu tiện, đại
tiện này.
Khi nóng, cũng nên mở quạt
hay đi tắm để chữa khổ...
Tất cả những việc làm này
đòi hỏi phải có tác ý chân chánh. Nếu không, hành giả sẽ làm những việc này vì
muốn làm chứ không phải để chữa khổ, và vì thế phiền não sẽ lẻn vào.
Tuy nhiên, cũng có những
gián đoạn khác xảy ra ngoài việc thực hành bình thường, như ai đó gõ cửa; thức
ăn hay vật dụng gì đó được đem đến liêu cốc; một người nào đó muốn nói chuyện
với hành giả; những sự cố như mất điện hoặc trục trặc các trang bị kỹ thuật;
v.v... Những vấn đề này cần phải được giải quyết theo lối thông thường, tuy
nhiên, hành giả phải biết rằng nó nằm ngoài pháp hành minh sát và không bao gồm
nó vào pháp hành được.
3. Pháp hành tự nhiên
- Ngồi, đi, làm việc như
đang ở nhà, sử dụng những oai nghi thông thường. [2]
- Ngồi tự nhiên thường
gồm nhiều oai nghi ngồi khác nhau, thay vì chỉ có đi, đứng, ngồi, nằm theo quy
định. Thái độ bình thường là ngồi cách này, rồi thay cách khác (luôn luôn là để
chữa khổ), và rồi lại thay cách khác, cuối cùng, khi không ngồi được nữa thì
đứng hoặc đi.
- Ði cũng cần phải được
thực hiện để chữa khổ. Nếu đi với ý định luyện tập thì nên tác ý lại là để chữa
khổ. Ðối với một số hành giả, đi là một oai nghi được xem là dễ dẫn đến những
động cơ khác hơn là chữa khổ. Ði cho thoải mái, đi theo cách nào đó để thấy
được thực tánh, hoặc để kiểm soát phóng tâm, v.v...
- Nằm cũng không nên xao
lãng. Nằm vẫn là một trong những oai nghi tự nhiên. Thoạt tiên, oai nghi nằm
phải mất một thời gian khá lâu mới thấy khổ. Song, với việc thực hành liên tục,
thân sẽ trở nên nhạy cảm hơn, và khi nằm xuống thì cái đau chẳng mấy chốc đã
xuất hiện. Nếu đang nằm ngửa thì chuyển sang nằm nghiêng, nhưng nhớ phải yoniso mỗi
khi thay đổi oai nghi.
- Nếu đang trong oai nghi
nằm mà cảm thấy buồn ngủ thì ngủ với tâm niệm rằng đó là để chữa khổ. Song, nếu
thân đã được ngủ đầy đủ mà vẫn ở trong tình trạng uể oải thì cần phải coi lại
xem có phải do ăn quá nhiều trong bữa điểm tâm hay bữa cơm trưa hay không. Nếu
phải, nên ăn giảm lại ba miếng trước khi no. Nếu trạng thái uể oải vẫn còn thì
đứng dậy rửa mặt, hoặc đi ra ngoài hít thở không khí trong lành cho tỉnh lại.
(Ngủ vượt ngoài những đòi hỏi bình thường của cơ thể, là một hình thức của tham
ái, vì thấy ngủ là thoải mái, hay được ngủ càng nhiều càng tốt).
- Khi thức dậy vào nửa
đêm, cố gắng ghi nhận sắc nằm. Nếu chỉ thức một lát (do trở mình hay giật
mình), cũng cần phải ghi nhận việc thay đổi oai nghi (là để chữa khổ).
Tại sao phải thực hành
một cách tự nhiên?
Dhamma Niyāma là Quy Luật Tự
Nhiên hay Trật Tự Tự Nhiên (tức quy luật Nhân Quả). Quy luật này hiện hữu ở mọi
nơi trong thế gian và Ðức Phật chỉ là Người khám phá ra nó. Dhamma
Niyāma có ba đặc tánh:
- Các pháp hữu vi là vô
thường - Sabba sankhāra anicca.
- Các pháp hữu vi là khổ
- Sabba sankhāra dukkha.
- Tất cả các pháp (hữu vi
& vô vi) là vô ngã - Sabba Dhamma anatta.
Bởi lẽ vô ngã cũng là
thực tánh của Niết Bàn nên tất cả các pháp (Dhamma) đều không có tự ngã
(anatta).
Ba đặc tánh trên hiện hữu
trong mọi lúc, mọi nơi, dù cho khi ở nhà không hành thiền cũng vậy. Tuy nhiên,
khi ở nhà, danh và sắc dễ bị phiền não ảnh hưởng làm cho ta nghĩ rằng
"Ta" hiện hữu. Ðó là lý do tại sao trong pháp hành, mọi sự, mọi việc
phải được làm một cách tự nhiên, nếu không, hành giả khó có thể thấy được những
quy luật tự nhiên (Dhamma Niyāma) này. Chẳng hạn, nếu việc
đi được thực hiện chậm một cách khác thường, tức không còn bình thường, quy
luật tự nhiên sẽ bị che án.
Sự việc này cũng xảy ra
như vậy nếu hành giả chỉ quan sát bước đi mà không quán sát toàn thân, hoặc không
quán sát toàn bộ sắc ngồi trong khi ngồi, như Ðức Phật đã làm sáng tỏ trong
đoạn Kinh sau:
"Lại nữa, này các tỳ
kheo, một vị tỳ kheo khi đi tuệ tri rằng: ta đang đi; hoặc khi đứng, vị ấy tuệ
tri rằng: ta đang đứng; hoặc khi ngồi, vị ấy tuệ tri rằng: ta đang ngồi; hoặc
khi nằm, vị ấy tuệ tri rằng: ta đang nằm. Tóm lại, dù khi thân ở oai nghi nào,
vị ấy tuệ tri nó là như vậy."(Dighā Nikāya, Mahāsatipaṭṭhāna Sutta)
(Ở đây, Ðức Phật dùng đại
từ nhân xưng "ta", bởi vì nó cần thiết cho việc truyền đạt, nhưng
phải hiểu là không có cái ngã nào thực hiện những oai nghi này, mà chỉ có Danh
và Sắc. Danh, Sắc ấy phải được quán sát ngay trên thân chúng ta, chứ không phải
trên thân người khác.)
Thiền sư Achan Naeb đặt
câu hỏi này:
- Làm thế nào hành giả
biết được cái gì là sắc đi?
- Cách hành giả đi tức là
sắc đi vậy. Nhớ là toàn thể oai nghi chứ không phải chỉ bước chân. Sắc đi được
nhận biết bằng ba danh -- tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác (yogavacara).
4. Làm thế nào để biết
được pháp hành của mình là đúng hay sai?
Việc nhận ra khi nào thì
pháp hành của mình đúng và khi nào sai rất là quan trọng. Chẳng hạn, với pháp
hành đúng, hành giả sẽ biết được oai nghi mình đang sử dụng và biết rằng oai
nghi đó là sắc ngồi. Biết oai nghi là nhiệm vụ của niệm, và biết đó là sắc ngồi
là nhiệm vụ của tỉnh giác. Hành giả sẽ biết hai điều này một lần. Nếu hành giả
có sự tỉnh thức đối với sắc ngồi bằng tuệ thẩm nghiệm, hành giả sẽ biết bằng
cảm nhận pháp hành như vậy là đúng. Nếu tuệ thẩm nghiệm đúng này được lập đi
lập lại mãi sẽ dẫn đến trí tuệ minh sát (vipassanā paññā).
Hành giả cần phải biết
rằng phận sự của Tứ Niệm Xứ là tiêu diệt tham - sân hay ưa - ghét. Chẳng hạn,
nếu hành giả không thích phóng tâm, như vậy, sân sẽ phát triển. Ngược lại, nếu
hành giả thích trú trong sát-na hiện tại bởi vì nó có lạc, lúc ấy, tham sẽ phát
sanh. Vì vậy, pháp hành đúng là duy trì sự tỉnh thức trong sát-na hiện tại càng
nhiều càng tốt - chính điều này sẽ tiêu diệt tham và sân.
Lại nữa, khi tâm gặp một
đối tượng, tùy thuộc vào tác ý của hành giả có đúng hay không mà các trạng
thái, hoặc là không kèm với phiền não (tức sát-na hiện tại), hoặc kèm với phiền
não (các triền cái) sẽ phát sanh. Giả sử tâm gặp "phóng tâm",
nếu yoniso không chân chánh, sân có thể nảy sanh. Nhưng
nếu yoniso chánh đáng, nó sẽ thấy rõ rằng phóng tâm chỉ là
Danh (phóng tâm), chứ không phải "ta" (phóng tâm), và hành giả sẽ sớm
trở lại sát-na hiện tại.
5. Giản dị hóa pháp hành
cho hành giả sơ cơ
Làm cho pháp hành trở
thành phức tạp lúc ban đầu không phải là một ý tưởng hay. Ðối với hành giả sơ
cơ, tốt nhất nên dùng sắc làm đối tượng quán trong sát-na hiện tại càng nhiều
càng tốt [3], bởi lẽ sắc thô nên dễ
thấy hơn, trong khi danh tế rất khó thấy, đồng thời giới hạn pháp hành vào
những điểm thiết yếu này:
- Phận sự chính của hành
giả là biết sắc ngồi, sắc đứng, v.v... trong mọi lúc bằng ba Danh -- tinh tấn,
chánh niệm, tỉnh giác -- nghĩa là hành giả trú trong sát-na hiện tại của tuệ
thẩm sát (ciñta pañña - present moment) càng liên tục càng
tốt.
- Phận sự phụ là ghi nhận
bất kỳ trạng thái tâm nào xen vào hay xâm nhập vào trong cái biết sắc ngồi,...
(Chẳng hạn khi hành giả đang quán sắc ngồi thì "danh nghe" hay
"danh thấy" nảy sanh.)
- Duy trì trong một oai
nghi quy định nào đó cho đến khi cái đau buộc phải thay đổi, lúc ấy, tác ý chân
chánh đến cái đau như là khổ và theo dõi cái đau chuyển sang oai nghi mới.
- Phải yoniso mọi
hoạt động khác (ăn, uống, tắm rửa hay làm các phận sự trong nhà v.v...) như để
chữa khổ.
Tóm lại, phận sự chính
của hành giả sơ cơ là phải tỉnh thức liên tục đối với sắc trong mọi oai nghi
cho đến khi hoàn toàn thuần thục trong việc quán ấy.
III. LUẬN VỀ PHÁP HÀNH
1. Liên hệ pháp hành với
Tứ Thánh Ðế
Khổ Ðế (dukkhasacca).
Trong mỗi oai nghi, chúng ta thấy khổ - đó là khổ thọ (dukkhavedanā) và
hành khổ (sankhāradukkha). Cả hai đều là Khổ Ðế (dukkhasacca) -
tức Danh-Sắc là khổ.
Tập Ðế (samudayasacca).
Ái (tanha) là nhân sanh khổ. Trong khi tỉnh thức với sắc ngồi, v.v...
(trong sát-na hiện tại), tuệ minh sát nảy sanh, và hành giả có thể diệt được tà
kiến cho rằng chính "Ta" đang ngồi - tức là diệt thân kiến (sakkāyadiṭṭhi).
Diệt Ðế (nirodhasacca).
Phiền não càng giảm thiểu, hành giả càng gần đến sự diệt khổ (nirodha) hơn. Sự
diêït này có thể là nhất thời đoạn diệt (tadanganirodha) [4] như trong sát-na
hiện tại, hoặc diệt đoạn tuyệt (samucchedanirodha) như trong sự
giác ngộ viên mãn.
Nếu ái diệt, thời khổ diệt,
bởi vì ái là nhân sanh khổ. Khi nhân diệt thời quả (khổ) cũng diệt. Như vậy, có
trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ chứng ngộ Tứ Thánh Ðế. Sự kiện này
tùy thuộc vào năng lực của Tâm Ðạo (Maggacitta). Tâm Ðạo chính là cái
sát trừ phiền não.
Ðạo Ðế (maggasacca).
Trong khi chánh niệm vào oai nghi như là sắc, trong sát-na hiện tại, chúng ta
cũng đồng thời tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ -- được xem là Bát Thánh Ðạo hay Ðạo Ðế.
Càng nhận rõ khổ bằng trí tuệ, chúng ta càng tu tập Bát Thánh Ðạo nhiều hơn
vậy.
2. Các loại khổ trong
pháp hành Vipassanā
Ðối với sắc (rūpa),
có hai loại khổ, là khổ thọ (dukkhavedanā) và hành khổ (sankhāradukkha).
Thọ khổ là sự khó chịu, đau nhức nơi thân. Hành khổ là cái đau đang diễn biến
hay đang được chữa. Khổ này khó thấy hơn khổ thọ.
Ðối với Danh-Sắc (nāma-rūpa),
cũng có hai loại, là khổ tướng (dukkhalakkhana) -- đây là đặc tánh của
danh sắc; và khổ đế (dukkhasacca) là cái khổ cố hữu.
Khổ thọ là cái khổ thông
thường, như được cảm giác trong các oai nghi. Người hành thiền cần phải quán
khổ thọ trước, bởi vì nó dễ thấy và lúc nào cũng hiện hữu trong bốn oai nghi.
Khi hành giả nhận rõ khổ, hành giả sẽ nhận ra Danh-Sắc bị khổ thọ này buộc phải
thay đổi oai nghi suốt ngày vậy.
Hành khổ là cái khổ được
mang qua oai nghi mới do buộc phải thay đổi từ oai nghi cũ. Hành khổ này cũng
gồm các hoạt động khác cần phải làm suốt ngày để duy trì thân thể, như là ăn
uống, thở vào, thở ra, v.v...
Khổ tướng là những đặc tánh
của Danh-Sắc. Chúng có cùng những đặc tánh như mọi hiện hữu là vô thường, khổ,
vô ngã. Loại khổ này chỉ có thể nhận ra bằng tuệ minh sát. Tam tướng hay ba đặc
tánh được thấy rõ ở Tuệ thứ tư trong 16 Tuệ minh sát, là Sanh Diệt Tuệ (Udayabbayañāṇa).
Khổ Ðế là Thánh đế thứ
nhất trong Tứ Thánh Ðế. Khổ Ðế ở đây là Danh và Sắc. Khi Khổ Ðế được chứng ngộ,
các phận sự khác của Tứ Thánh Ðế cũng được chứng ngộ.
3. Những vấn đề cần biết
3.1. Ngã kiến phiền não
thường lẻn vào ở đâu?
Ngã kiến phiền não lẻn
vào qua Danh (cảm giác). Như khi hành giả đang ngồi và Danh cảm giác rằng chính
"ta" đang ngồi hay tự ngã của ta đang ngồi. Hành minh sát là để nhận
ra sự thực rằng đó chỉ là sắc ngồi. Hành giả cần phải có tinh tấn -- chánh niệm
-- tỉnh giác mới thấy được rằng sắc đang ngồi.
3.2. Cái gì biết đó là
sắc ngồi?
Ba Danh -- tinh tấn,
chánh niệm, tỉnh giác -- biết được đó là sắc ngồi.
3.3. Mục đích của việc
tỉnh thức về bốn oai nghi này là gì?
- Tiêu diệt tà kiến
"ta" đang ngồi, đang đứng, v.v... Và điều này chứng minh rõ lý vô
ngã.
- Khi sắc ngồi có sự đau
nhức, chúng ta có thể thấy rõ khổ. Khi khổ buộc sắc phải thay đổi, thì đó là vô
thường (anicca). Vô thường nghĩa là chúng ta không thể ở yên trong một
oai nghi nào đó quá lâu. Lại nữa, khi chúng ta biết sắc ngồi (tức thấy vô ngã),
tự động chúng ta sẽ nhận ra hai đặc tánh khổ và vô thường bằng trí tuệ thẩm
nghiệm (cinta paññā).
3.4. Tại sao chúng ta
phải theo dõi cái đau từ oai nghi cũ sang oai nghi mới, chẳng hạn từ sắc ngồi
qua sắc đứng?
Khi sắc ngồi có sự đau
nhức, hành giả phải ghi nhận rằng sắc ngồi khổ. Khi chuyển sang sắc đứng, cái
đau ấy phải được theo dõi để nhận ra rằng sắc đứng cũng vẫn khổ. Khi cái đau
được chữa, hành giả có thể thấy ra rằng oai nghi mới là để chữa khổ, và điều này
sẽ ngăn chặn phiền não -- không thích đối với oai nghi cũ, hoặc thích thú với
oai nghi mới. Sở dĩ phiền não được ngăn chặn là vì lúc này chúng ta biết rằng,
không có "chúng ta" trong oai nghi cũ hoặc mới, chỉ có sắc ngồi, sắc
đứng,... mà thôi. Khi hành giả có tác ý chân chánh như vậy, hành giả sẽ nhận ra
là không có một sắc nào là lạc cả. Nhờ thường xuyên thay đổi oai nghi với tác ý
chân chánh, hành giả còn nhận ra sự thực rằng bốn oai nghi luôn che án thực
tánh khổ.
3.5. Tại sao chúng ta
nói "sắc ngồi", "sắc đứng"?
Bởi vì trong mỗi oai nghi
sắc không giống nhau, nghĩa là, sắc ngồi là một sắc, sắc đi là một sắc khác,
v.v... Ngay cả danh biết sắc ngồi cũng khác với danh biết sắc đi... Sở dĩ có
điều này là vì danh và sắc sanh diệt trong từng sát-na, do vậy chúng không bao
giờ giống nhau. Sự hiểu biết này sẽ giúp hành giả thấy rõ bản chất của nguyên
khối tưởng (ghanasañña, thường dẫn đến tà kiến cho rằng Danh-Sắc là
"ta", là tự ngã của "ta").
3.6. Những câu hỏi
hành giả có thể tự vấn:
Sắc ngồi là thường hay vô
thường? - Sắc ngồi là vô thường.
Làm sao để biết? - Bởi vì
khổ buộc sắc phải thay đổi thường xuyên.
Chúng ta có cái gì khiến
cho phải khổ? - Chúng ta có Danh và Sắc.
Danh là thường hay vô
thường? - Vô thường.
Làm sao biết được? - Danh
không thể trú lâu trên một đối tượng bao giờ. Phóng tâm sẽ phát sanh.
Danh có khổ hay không? -
Khổ.
Làm sao để chứng minh có
khổ trong danh? - Nó không thể ở yên một chỗ (nên là khổ). Danh và Sắc luôn
luôn vô thường và khổ, do đó, nó không có tự ngã. Vì không có tự ngã nên không
bị kiểm soát; chính vì thế mà nó không phải là "chúng ta". Khi hành
giả nhận rõ điều này, hành giả thấy được Pháp. Pháp mà hành giả thấy đó là khổ
(dukkha). Chính khổ này dẫn đến Khổ Ðế (dukkhasacca). Khổ Ðế là
Thánh Ðế tuyên bố rằng, ta không thể nào chữa được khổ trong danh và sắc, dĩ
nhiên là ngoại trừ việc chữa tạm thời. Cả danh và sắc đều sanh diệt một cách
nhanh chóng, và chúng ta không thể nào thay đổi được điều này.
Cái gì được xem là sắc
ngồi? - Toàn bộ oai nghi, hay cách chúng ta ngồi, là sắc ngồi.
Cái gì quán oai nghi
ngồi? - "Ta" không quán oai nghi ngồi, mà ba danh (tinh tấn, chánh
niệm, tỉnh giác) quán.
4. Khảo sát Danh và Sắc
Ðiều quan trọng mà hành
giả cần hiểu ở đây là Danh hay Sắc phải luôn luôn là đối tượng của pháp hành.
Nếu không có danh hay sắc thường xuyên làm đối tượng của sự tỉnh thức thì dù có
tinh tấn đến đâu, hành giả cũng không thể thành công. Tuy nhiên pháp hành sẽ
không đến nỗi quá khó nếu như hành giả hiểu rõ những nguyên tắc thực hành.
Cần phải khảo sát
Danh-Sắc kỹ lưỡng trước khi thực hành, như vậy, hành giả sẽ dễ dàng nhận ra cái
gì là danh, cái gì là sắc [5]. Cũng giống như việc đọc
chữ, người học trò cần phải biết các mẫu tự A, B, C,... thì mới có thể đọc
được. Hành giả cũng vậy, phải biết danh và sắc trước thì mới có thể hành đúng
được. Nếu chúng ta không có danh hay sắc làm đối tượng liên tục trong pháp
hành, chúng ta sẽ hành với ý niệm rằng "ta khổ", chẳng hạn, và như vậy
sẽ không thể nào loại trừ được ngã kiến.
5. Ðịnh (samādhi)
Trong pháp hành này, nếu
có quá nhiều định là điều không tốt. Ðôi khi trong oai nghi ngồi, hành giả chỉ
biết oai nghi ngồi mà không biết sắc ngồi, hoặc trong một vài trường hợp có
hành giả thậm chí còn không nhận ra oai nghi mà mình đang sử dụng nữa. Ðiều này
là do định tâm thái quá. Ðể giảm thiểu tâm định này, một vài hoạt động linh
hoạt được xem là rất hữu ích, chẳng hạn như làm các công việc, đi thật nhanh
hay chạy cũng được, v.v... Trong mọi trường hợp, nếu có quá nhiều tâm định ở
bất cứ oai nghi nào thì nên thay đổi oai nghi ấy.
Ðề cập đến định, Thiền sư
Achan Naeb nói: "Ðịnh nào lấy Niệm Xứ (satipaṭṭhāna) làm
đối tượng, định ấy sẽ không dẫn đến tham (abhijjha), bởi
lẽ nó đưa đến trí tuệ -- tuệ chứng ngộ khổ. (Ðây là cách duy nhất để biết xem
pháp hành của mình có đúng hay không). Ðịnh nào làm cho ta an lạc, không phải
là Niệm Xứ, bởi lẽ định ấy không thanh tịnh, mà bị ô nhiễm với phiền não. Mặc
dù nó tạo ra lạc, song nó không hủy diệt điên đảo tưởng (vipallāsa). Loại
định đó gọi là hành uẩn (sankhārakhandha), và như vậy là một phần của ngủ uẩn
(Danh-Sắc), và không thể diệt khổ, tức là, không thể đạt đến Niết Bàn (Niết Bàn
cũng là danh nhưng thường và lạc bởi vì Niết Bàn nằm ngoài năm
uẩn". Sát-na tâm đạo ngắn ngủi đó là Niết Bàn, do vậy không có
thọ [6].
Có khi hành giả thiên quá
về định đến nỗi mất đi cảm giác biết được rằng sắc đang ngồi. Mặc dù vậy, họ
vẫn nghĩ rằng họ cảm nhận được sắc ngồi, bởi vì họ thiếu sự quán sát pháp hành
(sikkhāti) để cho họ biết rằng sắc ngồi không còn được cảm nhận
nữa. Vả lại, nếu không có sikkhāti, hành giả có thể cảm giác
khổ nhưng không nhận ra đó là sắc ngồi có khổ. Người ấy sẽ nghĩ rằng chính
"anh ta" đang cảm thọ khổ, như thế, vô tình họ đã thực hành với ý
niệm "ta" ngồi, "ta" khổ, v.v... Và chắc chắn không thể nào
loại bỏ được tà kiến về tự ngã (thân kiến).
Trước tiên hành giả sẽ
biết sắc ngồi với tác ý chân chánh; kế đến, hành giả quán sát sắc ngồi với ba
danh -- tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác -- hay nói gọn là yogavacara.
Khi đau nhức phát sanh, yogavacara biết đó là sắc ngồi khổ.
Khi thực hiện việc thay đổi oai nghi, tác ý chân chánh biết sự thay đổi là để
chữa khổ, và tác ý này sẽ ngăn chặn tham và sân không cho xen vào trong lúc
thay đổi oai nghi.
6. Phóng tâm (uddhacca)
Một trong những nguyên
nhân sanh phóng tâm là có quá nhiều tinh tấn (ātāpī). Nhiệt tâm quá
mức này khiến cho hành giả xua đuổi phóng tâm và làm cho nó trở nên tệ hại hơn.
Phóng tâm là danh; phóng tâm là thực tánh, và cũng là một đối tượng nằm trong
Pháp Tùy Quán (Dhammānupassanā) của Tứ Niệm Xứ, bởi vì nó là
vô thường, khổ và vô ngã. Phóng tâm dạy cho ta biết rằng danh nằm ngoài sự kiểm
soát (vô ngã).
Mục đích của pháp hành
minh sát là nhằm tiêu diệt tham - sân (abhijjha - domanassa) với
tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Nếu hành giả thích định, đó là tham. Nhưng nếu
hành giả không thích phóng tâm khi nó phát sanh chỉ vì nó không phải định, điều
đó tạo ra sân. Trong cả hai trường hợp, hành giả đều không thể tiêu diệt tham
và sân. Vì thế, đối với phóng tâm, không nên có thái độ thích hay không thích.
Hành giả thực hành minh
sát là để phát triển thiện pháp (kusala). Nhưng, thay vào đó lại
gặt bất thiện pháp (akusala), bởi vì đã khởi tâm sân với phóng tâm. Sự
sân hận này là do thiếu trí tuệ, đặc biệt là tác ý chân chánh. Tác ý chân chánh
biết phóng tâm là danh, phóng tâm là thực tánh bởi vì nó vô thường, khổ và vô
ngã. Phóng tâm nảy sanh là vì ba danh quán sát không còn ở trong sát-na hiện
tại. khi hành giả nhận ra phóng tâm là danh (tâm sở), nó sẽ biến mất, và ba
danh sẽ trở lại với sát-na hiện tại. Ðừng theo dõi "câu chuyện" (dòng
suy nghĩ) của phóng tâm. Nếu không, phóng tâm này sẽ dẫn hành giả đi càng lúc
càng xa khỏi sát-na hiện tại. Nếu hành giả biết "câu chuyện" là hành
giả đã không có sự tỉnh thức. Nếu hành giả có sự tỉnh thức, hành giả sẽ không
biết "câu chuyện". Chỉ đơn giản nhận ra nó là phóng tâm và tâm sẽ tự
động trở lại với sát-na hiện tại.
Khi hành giả trở lại với
sát-na hiện tại, hành giả sẽ thấy sắc ngồi rất rõ. Ðược như vậy là vì lúc này,
hành giả không phải cố gắng để thấy sắc ngồi (do không có phiền não). Ðây là
tâm có chánh niệm -- tỉnh giác hay sự tỉnh thức -- và cần được duy trì, song
không nên cưỡng buộc. Việc thực hành này là để quán Danh-Sắc như một khán giả,
không nên cố gắng thay đổi hay kiểm soát chúng. Sau khi đã có kinh nghiệm nhiều
hơn trong pháp hành, "con vượn tâm" (tâm lang thang) sẽ trở nên thuần
hóa, và hành giả sẽ trú trong sát-na hiện tại thường xuyên. Lúc ấy, việc bắt
cảnh hiện tại hay sát-na hiện tại sẽ dễ dàng hơn đối với hành giả.
7. Phần linh tinh
Bệnh hoạn không phải là
chướng ngại cho việc thực hành. Nhưng có khả năng hành giả sẽ không cảm nhận
được sắc ngồi bởi vì quá đau. Hành giả lúc này chỉ nên quán cái đau, bỏ qua oai
nghi, và nhận ra rằng sắc thân là khổ [7], đó là khổ đế. hơn nữa,
hành giả cũng có thể thấy ra rằng sắc là vô ngã, vì nó không thể kiểm soát
được [8].
Làm thế nào để hành giả
biết được khi tâm có chánh niệm - tỉnh giác khởi sanh (trong sát-na hiện tại)?
Khi tâm có chánh niệm -
tỉnh giác, nó sẽ biết các oai nghi (đây là nhiệm vụ của chánh niệm), tâm biết
rằng oai nghi đó là sắc ngồi, v.v... (đây là nhiệm vụ của tỉnh giác). Khi sati
- sampajañña (chánh niệm tỉnh giác ) có mặt, sẽ không có những trạng
thái trạo cử, hối quá, không có những trạng thái bất an và chán nản đối với
pháp hành.
Nếu hành giả thiếu tinh
tấn, kết quả sẽ là lười biếng hoặc không chú tâm đến pháp hành. Thiếu tinh tấn
là do ít hiểu biết về pháp hành; không có khả năng thấy khổ và sự cần thiết của
việc loại trừ phiền não (kilesa), đồng thời cũng không có khả năng để
thấy rằng chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào, cần phải tận dụng thời gian mà
chúng ta có (để hành thiền). Ở đây, hành giả nên nhớ rằng, Ðức Phật đã để lại
di sản Giáo pháp cho chúng ta, pháp đó là Satipaṭṭhāna (Tứ
Niệm Xứ); do đó, chúng ta phải tận dụng mọi cơ hội để thực hành nó trong kiếp
sống này.
Hành giả sơ cơ cũng phải
nhớ rằng pháp hành này là thiện pháp tối cao (diệt trừ các phiền não), nó có
thể cần rất nhiều thời gian. Sở dĩ gọi là thiện pháp tối cao vì nó sẽ đưa hành
giả đến chỗ giải thoát khổ, và dĩ nhiên, điều đó không phải dễ. Hành giả cũng
không nên vội vã mong chóng có kết quả, bởi vì phần đông hành giả trước đây đã
từng hành không đúng nên cần phải có thời gian để phát triển pháp hành theo
đúng chánh pháp.
--ooOoo--
IV. KẾT LUẬN
Pháp hành đúng sẽ dẫn đến
kết quả đúng. Pháp hành đúng tùy thuộc vào trí tuệ và những thiện pháp đã tích
lũy đời trước.
Ðiều quan trọng trong
pháp hành này là làm sao thay đổi được tà kiến cho rằng Danh-Sắc này là
"Ta", là tự ngã của chúng ta. Nếu hành giả không thể chuyển đổi được
tà kiến này thì khó có thể đạt đến Tuệ thứ nhất (Tuệ phân biệt danh - sắc), và
không có Tuệ thứ nhất thì không thể phát triển 16 tuệ minh sát và chứng Niết
bàn được. Khi hành đúng và có kết quả, hành giả sẽ tự biết, cũng giống như việc
nếm đường -- bạn không cần người thầy bảo cho bạn biết vị đường là như thế nào.
Trong thời đại này, con
người nặng về tham ái và yếu về trí tuệ. Nó là vậy bởi vì đây là kỷ nguyên vật
chất dành cho tất cả mọi người (không phải chỉ có vua chúa mới hưởng được như
ngày xưa), những phương tiện kỹ thuật hiện đại bủa vây chung quanh làm chuyển
hướng tâm chúng ta. Người mới bắt đầu hành thiền nếu có ý nghĩ rằng ta rất
thích hành thiền và chắc chắn sẽ sớm thấy Pháp (Dhamma), người ấy sẽ
thất bại. Họ thất bại là vì phiền não có sức mạnh hơn, do đã tích luỹ lâu đời
trong họ, mà việc hành thiền là một quá trình gạn lọc từ từ. Người muốn loại
trừ phiền não trong tâm, cần phải hành đúng chánh pháp để diệt trừ phiền não và
đồng thời cũng phải hiểu pháp hành qua việc nghiên cứu những lời dạy xác đáng
của Ðức Phật. Không hiểu chánh pháp (pariyatti) và pháp hành
đúng để đoạn tận khổ, ta không thể chứng Niết bàn được.
Thiền sư Achaan Naeb nói
rằng, việc thực hành Vipassanā này rất khó, khó hơn cả việc đi
trên dây nữa. Nếu hành giả rơi xuống, hành giả phải tiếp tục đứng dậy và cố
gắng mãi cho đến khi thành công. Ðây là nhiệt tâm tinh tấn (ātāpī) hỗ
trợ trực tiếp cho chánh niệm tỉnh giác (sati - sampajañña) trú
trong sát-na hiện tại. Việc duy trì Trung Ðạo (không tham cũng không sân) -- sự
quân bình -- này, đòi hỏi rất nhiều cố gắng, thận trọng. Nó quả thực là khó,
nhưng không phải không thể - nếu hành giả thực sự muốn đoạn tận khổ.
--ooOoo--
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét