Thứ Ba, 8 tháng 6, 2021

Bát chánh đạo “con đường đưa đến chấm dứt đau khổ”

 


CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ

THE NOBLE EIGHTFOLD PATH “Way to the End of suffering” Nguyên tác Bhikkhu Bodhi.

LỜI TỰA
Căn bản của những lời Đức Phật dạy có thể được tóm tắt trong hai nguyên lý: Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.
Nguyên lý thứ nhất nói về bình diện học thuyết và câu trả lời tìm thấy cho chính phần này là sự hiểu biết; phần thứ hai nói về bình diện rèn luyện, dùng trong nghĩa khái quát nhất của danh từ rèn luyện và câu trả lời tìm thấy cho phần này là sự thực hành. Trong cấu trúc giáo lý của Đức Phật, hai nguyên lý này luôn liên kết vào nhau, không thể tách rời và được gọi là the Dhamma-Vinaya (pháp-luật) học thuyết-thực hành, hay gọi ngắn gọn là giáo pháp. Sự đồng nhất nội tại của giáo pháp được bảo đảm bởi phần cuối của Tứ Diệu Đế, chân lý của con đường tu tập là Bát Chánh Đạo. Trong khi yếu tố đầu tiên của Bát Chánh Đạo, chánh kiến, là sự hiểu biết đúng đắn về Tứ Diệu Đế. Như vậy, hai nguyên lý thấm nhuần với nhau và hàm chứa lẫn nhau. Công thức Tứ Diệu Đế bao gồm Bát Chánh Đạo và Bát Chánh Đạo bao gồm Tứ Diệu Đế.
Vì sự thống nhất toàn bộ này mà chúng ta không có lý gì để đặt ra câu hỏi phần nào của giáo Pháp có giá trị hơn, học thuyết hay con đường tu tập. Nếu chúng ta vẫn cố đặt ra câu hỏi này thì câu trả lời phải là con đường tu tập. Con đường tu tập chiếm được địa vị tối thượng vì tu tập mới làm cho lời Phật dạy trở nên sống động. Con đường tu tập biến đổi giáo pháp từ một tập tài liệu ghi chép những công thức trừu tượng thành một quá trình liên tục tiết lộ cho thấy chân lý. Nó tạo một lối thoát cho vấn nạn khổ và khổ là nguyên nhân khởi đầu giáo lý của Đức Phật. Nó làm mục đích của những lời Phật dạy, giải thóat khỏi vòng đau khổ. Chúng ta có thể đạt đến con đường tu tập trong kinh nghiệm bản thân của mỗi người nơi mà chỉ riêng sự tu tập mới có ý nghĩa đích thực.
Đi theo con đường Bát Chánh Đạo là việc thực hành hơn là kiến thức hiểu biết nhưng đi cho đúng đường thì phải hiểu biết đúng ý nghĩa. Thật ra, sự thông hiểu chính xác con đường tu tập tự nó là một phần của tu tập. Nó là một bình diện của chánh kiến, là nhân tố đầu tiên làm tiên phong và dẫn đường cho suốt tiến trình tu tập. Như vậy, mặc dầu vì sự hăng hái tu tập lúc ban đầu, chúng ta có thể cho rằng sự hiểu biết trí tuệ có thể được xem như một sự xao lãng phiền hà và nên xếp bỏ qua một bên nhưng suy nghĩ một cách nghiêm túc, chúng ta thấy nó rất cần thiết cho thành quả cuối cùng của tu tập.
Cuốn sách này nhắm mục đích góp phần vào sự tìm hiểu Bát Chánh Đạo một cách chính xác bằng cách tìm hiểu tám nhân tố của tiến trình tu tập và chúng liên đới với nhau như thế nào. Tôi cố gắng viết thật súc tích. Để làm khuôn mẫu cho sự trình bày, tôi dùng chính lời dạy của Đức Phật trong kinh tạng Pàli để giải nghĩa những nhân tố của con đường tu tập. Để giúp những độc giả không có được nhiều tài liệu gốc, ngay cả qua các bản dịch mà không được hoàn toàn như ý muốn, tôi vẫn cố gắng giới hạn tối đa các lời trích dẫn của tôi trong những trích dẫn được dùng trong hợp tuyển Lời Phật Dạy trong kinh tạng của Ngài Nyanatiloka. Trong vài trường hợp, có những đoạn trích dẫn từ tác phẩm này được thay đổi đôi chút để phù hợp với cách diễn đạt của riêng tôi. Để mở rộng thêm ý nghĩa, đôi khi tôi trích dịch từ các bài bình luận. Nhất là trong phần trình bày về Chánh Định và Trí Tuệ (Chương VII và Chương VIII), tôi dựa rất nhiều vào bộ sách Visuddhimagga (Con Đường Thanh Tịnh), một bộ bách khoa vĩ đại hệ thống hóa sự tu tập một cách chi tiết và rất đầy đủ. Vì khuôn khổ giới hạn của cuốn sách, tôi không thể trình bày hết sức đầy đủ cho mỗi một nhân tố. Để bù lại cho sự khiếm khuyết này, tôi liệt kê một số tài liệu chọn lọc ở cuối sách để độc giả có thể tham khảo tìm hiểu các dẫn giải có nhiều chi tiết hơn. Tuy thế, để bảo đảm hoàn toàn cho việc tu tập theo bát chánh đạo, nhất là vào các giai đoạn cao của định và tuệ, nếu được sự hướng dẫn từ một vị thầy đầy đủ khả năng thì sẽ vô cùng hữu ích.



CHƯƠNG I
Con Đường Đưa Đến Diệt Khổ
Đi tìm một con đường tâm linh khởi nguồn từ đau khổ, nó không bắt đầu với tri thức và trạng thái hạnh phúc (từ sự thực hành theo niềm tin tôn giáo. ND) nhưng với nhiều nghi vấn khó hiểu làm nhức nhối, thất vọng và rối loạn tâm trí. Tuy nhiên, để cho đau khổ dẫn ta vào sự tìm tòi thật sự đến con đường tâm linh nó phải đạt đến một mức cao hơn những gì chúng ta thụ động nhận lấy từ bên ngoài. Nó phải làm phát sinh một sự ý thức nội tâm, một sự cảm nhận làm tan vỡ sự tự mãn dễ dàng của chúng ta khi tiếp xúc bình thường với thế giới bên ngoài để có thể nhìn thoáng qua tinh thần bất ổn luôn luôn hiện hữu bên trong. Khi sự hiểu biết sâu sắc này bừng sáng lên, dầu chỉ trong giây phút, sẽ tức khắc tạo ra khủng hoảng trong cá nhân ta thật sâu xa. Nó làm đảo lộn các mục tiêu, giá trị quen thuộc, xem thường những lo lắng thường nhật của ta, làm cho những niềm vui cũ mất hết thú vị.
Lúc đầu những sự thay đổi này thường không được chúng ta vui vẻ đón nhận. Chúng ta cố chối bỏ cái viễn ảnh mới mẻ này và bóp chết các nghi vấn. Chúng ta tranh đấu xua đuổi sự bất mãn này với những theo đuổi mới. Nhưng ngọn lửa tò mò khi đã thắp lên sẽ tiếp tục cháy mãi, nếu chúng ta không để mình cuốn theo những thích nghi hời hợt, buông tay trở lại với một giải thích vá víu biện hộ cho sự lạc quan tự nhiên của mình thì cuối cùng ánh sáng yếu ớt lúc đầu của sự hiểu biết thâm sâu ấy sẽ vụt chói lên, một lần nữa sẽ đưa ta giáp mặt với cảnh ngộ thực tế của mình. Chính ở thời điểm này, khi tất cả các lối thoát đã bị chặn, chúng ta sẵn sàng tìm một con đường chấm dứt sự bất an trong lòng. Chúng ta không còn có thể tiếp tục tự mãn trôi dạt trong cuộc đời, thúc đẩy bởi sự thèm khát dục lạc của năm giác quan và áp lực của những thói thường trong xã hội. Một thực tại sâu sắc hơn mời gọi chúng ta. Chúng ta đã nghe tiếng gọi của hạnh phúc chắc chắn và trung thực hơn. Cho đến khi chưa đến đích, chúng ta không thể mãn nguyện.
Nhưng chính vào lúc này, chúng ta gặp phải một khó khăn mới. Khi nhận ra cần có con đường tâm linh, chúng ta khám phá ra rằng các giáo lý về tâm linh không thuần túy giống nhau và tương hợp với nhau. Khi xem lược qua các tủ sách nói về di sản tâm linh của nhân loại, cổ xưa cũng như cận đại, chúng ta không tìm thấy một cuốn nào thật đơn thuần mà chỉ thấy giống như là một cửa hàng tạp hóa bày đầy những hệ thống, ban ngành và tất cả đều muốn cống hiến cho ta cái cao xa nhất, nhanh chóng nhất, có quyền lực nhất hay một giải pháp sâu sắc nhất cho sự tìm kiếm nguyên lý tối hậu của chúng ta. Đối diện với sự hỗn tạp này, tâm trí chúng ta bị rối tung lên khi cố gắng đánh giá, để quyết đoán xem học thuyết nào thật sự giải thoát, thật sự đáp ứng được các nhu cầu của mình và đường nào đi sai chứa đầy những khuyết điểm bên trong.
Ngày nay, một cách thông dụng dùng để giải quyết vấn đề là chiết trung, từ nhiều truyền thống, chọn lấy bất cứ cái gì có vẻ hòa hợp với nhu cầu của mình, kết nối những sự thực hành và kỹ xảo khác nhau vào chung một tổng hợp theo ý mình. Như vậy, người ta có thể tập hợp môn thiền chánh niệm của Phật giáo với sự tụng niệm thần chú của Ấn giáo; cầu nguyện của Ki Tô giáo với thiền múa Sufi; Kabbala của Do Thái giáo với cách thực tập quán tưởng của Tây Tạng. Tuy rằng, đôi khi phương pháp chiết trung có thể giúp chúng ta chuyển tiếp từ lối sống nặng về thế tục và vật chất qua lối sống lấy thêm màu sắc tinh thần nhưng cuối cùng phương pháp này cũng sẽ mất dần hiệu quả. Bởi vì, nó có thể dùng như một quán trọ tiện nghi giữa đường nhưng không phải là một chiếc xe thuận tiện để đến điểm cuối.
Phương pháp chiết trung có hai thiếu sót quan hệ với nhau, cuối cùng làm cho nó bị khiếm khuyết. Một là nó làm giảm giá trị của chính những truyền thống mà nó vay mượn. Những truyền thống nổi tiếng thuộc tinh thần không đề xướng học thuyết của họ như là những kỹ thuật từng phần độc lập để chúng ta có thể cắt xén ra khỏi bối cảnh của chúng và tự do kết hợp để nâng cao phẩm chất mình cảm nhận trong cuộc đời. Họ trình bày như là những phần của một toàn thể, một tầm nhìn có kết cấu mạch lạc về bản chất căn bản của thực tại và mục đích cuối cùng trong nỗ lực tìm kiếm về tâm linh. Truyền thống tâm linh không phải là một con suối cạn để cho chúng ta nhúng ướt chân rồi lui vội vào bờ. Nó là một con sông hùng vĩ cuồn cuộn chảy nhanh qua khắp bối cảnh của đời ta. Nếu muốn đi trên giòng sông đó, chúng ta phải đủ can đảm lao thuyền xuống sông và chèo ra vực nước sâu.
Khuyết điểm thứ hai của phương pháp chiết trung từ khuyết điểm thứ nhất. Tại vì những cách tu tập về tâm linh được xây dựng trên những tầm nhìn về bản chất của thực tại và lợi ích cuối cùng, những tầm nhìn này lại không tương hợp với nhau.
Khi thành thật nghiên cứu giáo lý của các truyền thống này, chúng ta sẽ thấy những khác biệt chính yếu về quan điểm hiện rõ trước mắt chúng ta. Những khác biệt đó không dễ được thông qua như những cách nói khác nhau dùng để chỉ về cùng một vấn đề. Thay vào đó, họ dẫn ra những kinh nghiệm rất khác nhau để đưa đến mục đích cuối cùng và con đường phải đi qua để đạt đến mục đích đó.
Do đó, vì những điểm dị đồng về quan điểm và thực hành của các truyền thống tâm linh khác nhau, khi chúng ta quyết định vượt qua phương pháp chiết trung và cảm thấy mình sẵn sàng nghiêm túc dấn thân vào một con đường nào đó thì chúng ta sẽ thấy bị khó khăn trong sự lựa chọn một con đường để đưa đến giác ngộ và giải thoát thật sự. Một gợi ý nhằm giải quyết vấn đề lưỡng nan này là tự mình phải làm sáng tỏ cho chính mình về mục tiêu chính yếu của đời mình, để quyết định đi tìm những gì trên con đường giải thoát thật sự. Nếu suy tư cẩn thận thì chúng ta sẽ thấy rõ điều bắt buộc quan trọng nhất là tìm con đường dẫn đến thoát đau khổ. Tất cả mọi vấn đề cuối cùng sẽ thu gọn vào khổ đế. Như vậy, điều chúng ta cần là một đường lối chấm dứt hoàn toàn vấn nạn này đến tận cuối. Cả hai điều kiện này rất quan trọng. Con đường phải dẫn đến sự chấm dứt hoàn toàn đau khổ, chấm dứt đau khổ dưới mọi hình thức và đến tận cùng của đau khổ, làm cho đau khổ mất hẳn không phát sinh trở lại.
Nhưng ở đây chúng ta gặp phải một câu hỏi khác nữa. Làm sao chúng ta tìm ra con đường như vậy, một con đường có khả năng đưa đến chỗ chấm dứt hoàn toàn đau khổ đến tận cùng? Ngoại trừ thật sự đạt đến mục tiêu của con đường, chúng ta không biết chắc chắn nó sẽ đưa mình đến đâu. Để theo con đường đến đựơc mục tiêu, chúng ta phải đặt hết lòng tin vào hiệu quả của nó. Theo đuổi một con đường tâm linh không giống như chọn lựa một bộ đồ mới. Để chọn một bộ đồ mới, người ta chỉ cần mặc thử một vài bộ, ngắm mình trong gương và lựa bộ nào thấy đẹp nhất. Chọn lựa một đường tâm linh tựa như hôn nhân: Người ta muốn có một bạn đời trăm năm, một người bạn đồng hành với tình nghĩa sẽ được chứng minh bằng sự đáng tin cậy và bền lâu như sao bắc đẩu trên trời đêm.
Đối diện với vấn đề lưỡng nan mới này, chúng ta có thể thấy mình đã vào ngõ cụt và kết luận rằng không có gì để hướng dẫn cho mình trừ khuynh hướng cá nhân nếu không muốn nói ném đồng tiền xem sấp ngữa ra sao. Tuy thế, sự chọn lựa của chúng ta không cần phải mù quáng và thiếu ý thức như mình tưởng tượng vì chúng ta có nguyên tắc hướng dẫn. Những lối đi tâm linh thường được trình bày trong khuôn khổ một giáo lý tổng quát, chúng ta có thể thẩm định sự hiệu quả của một con đường nào đó bằng cách tìm hiểu giáo lý dẫn giải nó.
(1) Đầu tiên, giáo lý ấy phải diễn tả một bức tranh đầy đủ và chính xác phạm vi của đau khổ. Nếu phạm vi của đau khổ được đưa ra không đầy đủ hoặc khiếm khuyết, con đường đưa ra hầu như bị thiếu sót, không đủ khả năng tạo được một giải pháp thỏa đáng. Tương tự như bệnh nhân cần bác sĩ chẩn bệnh đúng và đầy đủ cho căn bệnh của mình, để được thoát khỏi đau khổ, chúng ta cần một giáo lý trình bày một sự mô tả đáng tin cậy với hoàn cảnh của mình.
(2) Tiêu chuẩn thứ hai đòi phải có sự phân tích đúng đắn những nguyên nhân gây ra đau khổ. Giáo lý không thể chỉ dừng lại với sự quan sát tổng quát những triệu chứng bên ngoài. Nó phải đào sâu tận triệu chứng đến mức nguyên nhân và nó phải diễn tả các nguyên nhân thật chính xác. Nếu giáo lý phân tích nguyên nhân bị sai lầm thì rất khó cho sự điều trị thành công.
(3) Tiêu chuẩn thứ ba liên quan đến chính con đường. Nó qui định rõ là con đường do giáo lý vạch ra phải chấm dứt đau khổ tận gốc. Điều này có nghĩa là nó phải đưa ra một phương pháp chấm dứt đau khổ bằng cách trừ khử các nguyên nhân. Nếu nó thất bại không đem lại được giải pháp căn bản này thì cuối cùng, giá trị của nó là con số không. Con đường mà nó vạch ra có thể giúp ta trừ bỏ được chứng bệnh và làm cho ta thấy mọi sự an lành. Như một người bị căn bệnh hiểm nghèo, không thể cho giải phẩu thẩm mỹ là đủ; trong khi dưới bề mặt, nguyên nhân căn bệnh vẫn tiếp tục phát triển.
Tóm lại, chúng ta thấy có ba yêu cầu trong những giáo lý đề xướng một giải pháp trung thực đưa đến chấm dứt khổ: Thứ nhất, nó phải đưa ra một bức tranh mô tả đầy đủ và chính xác về phạm vi của khổ. Thứ hai, nó phải trình bày một sự phân tích chính xác các nguyên nhân của khổ. Thứ ba, nó phải cho chúng ta phương pháp chấm dứt các nguyên nhân của khổ.
Đây không phải là nơi để chúng ta thẩm định những học thuyết tâm linh căn cứ vào các tiêu chuẩn vừa nêu trên. Vấn đề của chúng ta chỉ liên quan với Giáo Pháp, lời dạy của Đức Phật với giải pháp mà giáo lý này đưa cho vấn nạn khổ. Giáo Pháp của Đức Phật thích đáng với vấn nạn này rất rõ ràng ngay trong chính bản chất của nó. Bởi vì nó được cấu trúc không phải như một bộ triết thuyết nói về sự bắt đầu và chấm dứt khổ theo những yêu cầu bằng tín ngưỡng nhưng như là một thông điệp giải thoát khỏi đau khổ được xem có thể chứng nghiệm được ngay trong kinh nghiệm riêng của chính mình. Cùng đi với thông điệp đó, có phương pháp thực hành, một con đường dẫn đến nơi tận cùng của sự chấm dứt khổ. Con đường này là Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo là giáo ý trung tâm của Đức Phật. Chính sự khám phá ra con đường này đem đến cho sự giác ngộ riêng của Đức Phật một ý nghĩa toàn diện và đưa Ngài từ tư cách của một vị hiền triết khôn ngoan và nhân từ lên địa vị của một bậc Đạo sư trên thế giới. Đối với đệ tử, Ngài là “người khởi xướng con đường chưa được ai khởi xướng trước đây, người tạo dựng một con đường chưa được ai tạo dựng trước đây, người nêu ra con đường chưa được ai nêu ra trước đây, người thấy trước con đường, người biết con đường, người hướng đạo của con đường.” (Trung Bộ. 100).” Và chính Ngài gọi mời mọi người đi tìm giải thoát với một lời hứa và thử thách, “Chính các bạn phải nỗ lực. Các Đức Phật chỉ là vị thầy. Những ai nhiệt tâm thực hành con đường này, được giải thoát khỏi sự trói buộc của ác ma.” (Pháp cú. 276).
Muốn xem Bát Chánh Đạo như một phương tiện chắc chắn đưa đến giải thoát, chúng ta phải xét lại theo ba tiêu chuẩn ở trên: Nhìn vào sự tường thuật của Đức Phật về phạm vi của khổ, sự phân tích các nguyên nhân của khổ và chương trình Ngài đưa ra để chữa trị hết khổ.


Phạm vi của khổ
Không những Đức Phật không bàn đến vấn đề khổ một cách hời hợt mà Ngài còn lấy nó làm cột trụ cho giáo lý của Ngài. Ngài bắt đầu với Tứ Diệu Đế, tóm tắt thông điệp của Ngài tuyên bố cuộc đời luôn luôn gắn liền với dukkha. Danh từ Pàli này thường được dịch ra là đau đớn, khổ sở, nhưng nó hàm ý nhiều vấn đề sâu xa hơn là đau đớn và khổ sở. Nó nói đến tất cả sự bất mãn trong suốt cuộc đời của mọi người trừ những người đã đạt được giác ngộ. Đôi khi sự bất mãn này bùng nổ ra bên ngoài thành buồn rầu, thương tiếc hay thất vọng. Nhưng thường thường, nó quanh quẩn bên lề nhận thức của chúng ta như một sự cảm nhận mơ hồ không rõ ở đâu là mọi việc không phải lúc nào cũng hoàn hảo, không bao giờ hoàn toàn đầy đủ như mình mong muốn nó phải như vậy. Đối với sự thật của dukkha, Đức Phật dạy nó là một vấn đề tâm linh thật sự. Với những vấn đề khác, những nghi vấn thần học và siêu hình đã từng thách thố những tư tưởng gia tôn giáo qua nhiều thế kỷ, Ngài nhẹ nhàng xua tay đẩy qua một bên xem như “những việc không lợi gì cho giải thoát”. Ngài nói Ngài chỉ dạy về đau khổ và chấm dứt đau khổ, dukkha và chấm dứt nó.
Đức Phật không dừng lại ở những vấn đề tổng quát về khổ. Ngài tiếp tục phơi bày nhiều hình thức của khổ, gồm cả hai khía cạnh hiển nhiên và tinh tế khó thấy. Ngài bắt đầu với những gì có trước mắt, những nỗi khổ có sẵn trong diễn tiến vật chất của chính đời sống. Ở đây, khổ xảy đến trong các sự kiện sinh, già, chết, dễ mắc bịnh, hay gặp tai nạn, hay bị thương tích, ngay cả trong đói khát. Nó xuất hiện trở lại trong các phản ứng nội tâm của chúng ta với những hoàn cảnh ấy và các sự cố không vừa lòng, trong buồn rầu hờn giận, tức bực và lo sợ bị khuấy động lên bởi những chia cách đau lòng, những gặp gỡ không vui, những thất bại vì không tìm thấy những gì mình ước muốn. Đức Phật nói ngay cả lạc thú cũng không tránh khỏi khổ. Nó đem cho ta hạnh phúc khi nó còn nhưng nó không còn mãi mãi; cuối cùng nó cũng phải đi qua và khi nó đi qua rồi, để lại sự mất mát cho ta cảm giác bị tước đoạt. Cả cuộc đời, ta bị níu kéo giữa thèm khát lạc thú và lo sợ đau đớn. Chúng ta sống qua từng ngày, đuổi theo cái này hoặc chạy trốn cái kia, ít khi được hưởng sự bình an cuả thỏa mãn; sự thỏa mãn thật sự hình như lúc nào cũng nằm ngoài tầm tay, chỉ ở bên kia chân trời sắp đến. Thế rồi, cuối cùng chúng ta phải chết, từ bỏ cá nhân con người mà mình sống cả đời để tạo dựng, bỏ lại sau lưng những thứ, những người mình thương mến.
Nhưng Phật dạy, ngay cả chết cũng chưa chấm dứt được dukkha vì tiến trình của đời sống không dừng lại ở cái chết. Khi cuộc sống chấm dứt ở một nơi, với một thân xác thì “sự tiệm tiến của tinh thần,” giòng tâm thức cá nhân lại sinh ra ở một nơi khác với một cơ thể mới làm nguồn sống cho thể chất. Như vậy, cái chu kỳ này tiếp tục tái hiện: sinh, già, chết, bị thúc đẩy bởi sự khát vọng được sống mãi. Đức Phật tuyên bố cái vòng tái sinh này gọi là samsara, “đi lang thang”, đã quay mãi từ thời vô thủy. Nó không có điểm khởi đầu, không có nguồn gốc thời gian. Chúng ta có đi ngược thời gian bao lâu đi nữa thì chúng ta vẫn luôn luôn tìm thấy sinh vật, chính chúng ta ở bao kiếp trước, đi lang thang từ trạng thái hiện hữu này qua trạng thái hiện hữu khác. Đức Phật mô tả nhiều thế giới khác nhau nơi chúng ta có thể tái sinh: những địa ngục, thế giới súc sinh, thế giới nhân sinh và những cõi trời. Nhưng không có thế giới nào là chỗ ở vĩnh viễn. Đời sống ở bất cứ cõi nào cũng có ngày hết. Nó vô thường và như vậy đậm màu bất an và đó là ý nghĩa sâu xa nhất của dukkha. Chính vì vậy, người nào mong muốn hoàn toàn chấm dứt dukkha thì không thể bằng lòng với bất cứ thành đạt, bất cứ địa vị trần tục nào mà phải tìm cách giải thoát khỏi toàn thể vòng xoáy bất an này.


Nguyên nhân của khổ
Như chúng ta đã nói, một giáo lý đề ra cách đưa đến chấm dứt khổ phải giải thích chính xác đầy đủ những nguyên nhân nguồn gốc của khổ. Nếu chúng ta muốn ngăn chặn đau khổ thì phải ngăn lại từ nơi phát sinh với tất cả nguyên nhân của nó. Ngăn chặn nguyên nhân đòi hỏi chúng ta phải có kiến thức đầy đủ biết rõ chúng là gì và hoạt động như thế nào. Vì vậy, Đức Phật dành riêng một phần lớn giáo lý của Ngài để phơi bày “sự thật về nguồn gốc của khổ.” Ngài xác định nó ở trong ta. Có một chứng bệnh căn bản tràn ngập thân ta, gây xáo trộn tâm trí ta, vô hiệu hoá các mối liên hệ giữa ta với người khác và với thế giới. Dấu hiệu của căn bệnh này, có thể thấy trong xu hướng thiên về một số các trạng thái tinh thần bất thiện mà tiếng pàli gọi là kilesas, thường được dịch ra là “phiền não.” Những phiền não căn bản là ba loại: tham lam, sân hận và si mê. Tham (lobha) là tham muốn cho mình, tham muốn khoái lạc và tiền của, động lực sống còn, sự thúc dục nâng cao bản ngã với quyền lực, địa vị và uy tín. Sân hận (dosa) biểu thị phản ứng phủ nhận, bộc lộ qua sự chối bỏ, bực tức, nguyền rủa, ghét bỏ, thù nghịch, giận dữ và hung bạo. Si mê (moha) có nghĩa tinh thần tối tăm: một lớp vô cảm dày đặc ngăn chặn khả năng hiểu biết sáng suốt.
Từ ba căn bản này xuất hiện nhiều phiền não khác nhau - tự phụ, ganh ghét, tham vọng, thờ ơ, kiêu căng và những tánh xấu còn lại. Từ tất cả các phiền não này cọng lại, từ căn bản đến chi nhánh, lộ dạng dukkha trong các hình thức khác nhau: đau đớn và buồn rầu, sợ hãi và bất bình, như trôi nổi vô định trong vòng sinh tử. Để được giải thoát khỏi đau khổ chúng ta phải lọai bỏ hết tất cả phiền não. Nhưng sự tu tập loại trừ phiền não phải tiến hành một cách có phương pháp. Nó không thể được hoàn thành chỉ bằng quyết định của ý chí, bằng cách muốn chúng biến mất đi. Sự tu tập này phải được hướng dẫn bằng điều tra nghiên cứu. Chúng ta phải tìm ra phiền não tùy thuộc vào những gì và rồi nhận ra bằng cách gì chúng ta có thể dùng năng lực của mình để loại bỏ điểm tựa của chúng.
Đức Phật dạy có một loại phiền não làm nẩy sinh ra tất cả những phiền não khác, căn bản này nắm giữ tất cả các phiền não. Căn bản đó là vô minh (avijjà) (1). Vô minh không phải chỉ là sự vắng mặt của kiến thức, thiếu hiểu biết một số thông tin đặc thù nào đó. Vô minh có thể xảy ra trong lúc chúng ta đã tích lũy được nhiều kiến thức với vô số chi tiết và theo cách riêng của nó, nó có thể vô cùng sắc sảo và biết ứng biến trong mọi trường hợp. Vô minh là nguồn gốc của khổ vì căn bản của nó là bóng tối che mờ tâm trí. Đôi khi vô minh hoạt động một cách tiêu cực, chỉ làm tâm trí tăm tối không cho ta hiểu biết đúng. Những lúc khác, nó đóng một vai trò chủ động, đánh lừa rất tài tình, tạo ra nhận thức và khái niệm méo mó mà tâm trí cho là đặc tính của thế gian, không ngờ đó là những tạo tác dối lừa của chính vô minh.
Từ những nhận thức và khái niệm sai lầm này, chúng ta tìm thấy mảnh đất nuôi dưỡng phiền não. Tâm trí thấy được triển vọng nào đó của lạc thú, chấp nhận giá trị bề ngoài của nó và kết quả là tham lam. Khi sự thèm khát được thụ hưởng bị ngăn chặn thì trở ngại hiện lên, tức giận và thù ghét bộc phát. Khi chúng ta vật lộn với những sự việc mơ hồ, nhận thức của ta bị che mờ và chúng ta đi lạc vào ảo tưởng. Những phiền não nầy là vùng đất sinh sản ra khổ: vô minh sinh ra phiền não và phiền não sinh ra khổ đế. Khi màng lưới nhân duyên này còn vững chắc thì chúng ta còn trong nguy hiểm. Chúng ta vẫn còn có thể tìm được lạc thú và hưởng thụ, lạc thú của giác quan, lạc thú của xã hội, lạc thú của tâm trí và con tim. Nhưng dù được hưởng bao nhiêu lạc thú, dù thành công do tránh né được đau khổ đến đâu thì căn bản của phiền não vẫn còn trong con người của chúng ta và chúng ta còn phải tiếp tục bước đi trong vòng kiềm hãm của đau khổ.
Chấm dứt nguyên nhân của khổ
Để giải thoát toàn bộ đau khổ, chúng ta phải diệt nó từ cội rễ, nghĩa là phải diệt vô minh. Nhưng bằng cách nào chúng ta diệt được vô minh? Câu trả lời rõ ràng đi theo tính chất của đối tượng. Vì vô minh là trạng thái nhận thức sự vật không đúng như chúng đang thật sự hiện hữu, cái cần có là nhận thức về sự vật đúng như chúng đang là. Không những chỉ kiến thức bằng khái niệm, kiến thức như ý tưởng, mà là kiến thức bằng hiểu biết, biết cũng là thấy. Sự hiểu biết này được gọi là trí tuệ (paññà). Trí tuệ giúp ta sửa sai những sự xuyên tạc của vô minh. Trí tuệ cho ta khả năng thấu hiểu sự thật của sự vật trong bản chất thật sự của chúng, trực tiếp và ngay tức khắc, không bị ngăn che bởi bình phong của những ý tưởng, quan điểm và giả thiết mà các loại tâm của ta thường dựng lên giữa chúng và sự thật.
Để diệt vô minh chúng ta cần có trí tuệ, nhưng bằng cách gì để có trí tuệ? Là nhận thức không còn chút phân vân về tất cả bản chất của sự vật, trí tuệ không thể đạt được chỉ bằng học vấn hay bằng cách thu thập và tích trữ một khối dữ kiện. Tuy nhiên, Đức Phật nói, trí tuệ có thể đạt được do tu tập. Nó hình thành qua một số những điều kiện, những điều kiện mà chúng ta có thể phát triển bằng năng lực. Những điều kiện này thật ra là những nhân tố tinh thần, thành phần của tri thức, nằm trong một cơ cấu có hệ thống có thể gọi là một con đường đúng theo nghĩa chính của danh từ này: một đường đi hướng đúng về một mục tiêu. Mục tiêu ở đây là chấm dứt đau khổ và đường đi dẫn đến đó là Bát Chánh Đạo với tám thành tố: chánh kiến, chánh chủ ý (tư duy), chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Đức Phật gọi con đường này là trung đạo (majjhimà patipadà). Trung đạo vì nó vượt ra cả hai cực đoan, hai loại nỗ lực sai lầm để thóat ly đau khổ. Một là đam mê dục lạc tối đa, nỗ lực dập tắt bất mãn bằng cách thỏa mãn ham muốn. Phương pháp này đem khoái lạc đến cho ta nhưng sự hưởng thụ có được rất dung tục, tạm bợ và không có sự mãn nguyện thâm sâu. Đức Phật ý thức rằng đam mê nhục dục có khả năng kìm hãm tâm trí con người rất chặt chẽ và Ngài cũng nhận thấy rõ ràng loài người lại luôn mê say gắn bó với lạc thú của giác quan. Đồng thời, Ngài cũng biết lạc thú này thấp hèn thua hẳn hạnh phúc phát sinh từ sự ly dục và vì thế Ngài luôn luôn dạy rằng con đường dẫn đến mục đích chính yếu cuối cùng đòi hỏi phải từ bỏ nhục dục. Vì vậy mà Đức Phật diễn tả say đắm trong lạc thú nhục dục là “thấp hèn, tầm thường, trần tục, đê tiện, không đưa đến mục đích thoát khổ (Kinh Chuyển pháp luân. ND).
Cực đoan kia là sự thực hành khổ hạnh, sự nỗ lực đạt đến giải thoát bằng cách tự hành hạ thân xác. Phương pháp này có thể bắt nguồn từ ước vọng thật sự mong muốn giải thoát nhưng hành động theo sự hướng đạo của một giả định sai lầm làm cho nghị lực bị tiêu hao, không có kết quả. Sự sai lầm này cho rằng thân xác là nguyên nhân của sự lệ thuộc trong khi nguồn gốc thật sự của đau khổ nằm trong tâm. Tâm bị ám ảnh bởi tham, sân và si. Để giải thoát tâm ra khỏi các phiền não bằng cách hành hạ thân xác thì không những vô ích mà còn tự tiêu diệt mình. Bởi vì nó tàn hại một công cụ cần thiết (thân thể.ND). Vì thế, Đức Phật diễn tả cực đoan thứ hai này là: “Đau đớn, thấp hèn, không dẫn đến mục tiêu” (giải thoát đau khổ.ND) (2).
Đứng ngoài hai phương pháp cực đoan này là Bát Chánh Đạo, gọi là trung đạo, không có nghĩa là thỏa hiệp giữa hai cực đoan, nhưng có nghĩa vượt lên trên cả hai bằng cách tránh những sai lầm mỗi bên gây nên. Trung đạo tránh sự thái quá về nhục dục bằng cách thừa nhận sự phù phiếm của ham muốn và sự vô ích khi nhấn mạnh việc từ bỏ thân xác. Ham muốn và nhục dục không bao giờ là phương tiện tạo hạnh phúc. Chúng là động lực gây ra đau khổ mà chúng ta phải từ bỏ như là điều kiện tiên quyết của giải thoát. Luyện tập ly dục không hàm chứa việc giày vò thân xác. Nó bao gồm luyện tập về tinh thần và cơ thể cần phải khỏe mạnh để hỗ trợ cho hoạt động của tinh thần. Như vậy cơ thể cần được chăm sóc đàng hoàng, gìn giữ sức khỏe đồng thời những khả năng tinh thần được huấn luyện để phát sinh trí tuệ giải thoát. Đây là trung đạo, Bát Chánh Đạo, làm “phát sinh nhận thức, phát sinh hiểu biết và dẫn đến bình yên, đến hiểu biết trực tiếp, đến giác ngộ, đến niết bàn.”(3)


PHẦN KẾT
Đến đây, hoàn tất phần nghiên cứu của chúng ta về Bát thánh đạo, con đường thoát khổ do Đức Phật dạy. Những
thành tựu cao thượng của thánh đạo dường như còn xa với vị trí hiện tại của chúng ta. Những đòi hỏi của sự tu tập có thể khó thực hiện. Nhưng ngay cả trong hiện tại, khi những đỉnh cao của giác ngộ vẫn còn xa thì tất cả những gì chúng ta cần đạt đến đang nằm ngay dưới chân mình. Tám chi phần của thánh đạo đang luôn luôn tiếp cận với chúng ta. Chúng là những thành phần thuộc tinh thần mà chúng ta có thể xây dựng trong tâm thức chỉ bằng kiên quyết và tinh tấn. Chúng ta phải bắt đầu bằng cách điều chỉnh nhận thức theo quan điểm đúng và làm trong sáng chủ ý của mình. Sau đó, chúng ta phải làm thanh tịnh tư cách đạo đức: lời nói, hành động và nghề nghiệp. Dùng những tiêu chuẩn này làm nền tảng, chúng ta phải tự rèn luyện bằng nghị lực và quán niệm để phát triển định và tuệ. Phần còn lại là tu tập từ từ và tiến bộ từ từ, không mong cầu kết quả nhanh chóng. Một số người có thể tiến bộ nhanh, một số khác có thể chậm nhưng tốc độ nhanh chậm không phải là lý do để tự đắc hay thối chí. Giải thoát là kết quả tất nhiên của thánh đạo và khi tu tập đều đặn và kiên trì, chắc chắn sẽ nở hoa giác ngộ. Hai điều kiện cần thiết để đạt đến mục đích cuối cùng: bắt đầu và tiếp tục. Nếu những điều kiện này được hội tụ thì sẽ đạt đến mục đích, không do dự nữa. Đây là giáo pháp, quy luật luôn luôn đúng hướng.
Cùng dịch với PT Tâm cảnh.
sửa xong ngày 22 tháng 03 năm 2021 _ Phật lịch 2565.
Tỳ khưu Tâm hạnh
Mindful Way Buddhist Meditation Society
Tu viện Đạo tâm
10164 Gramercy Pl
Riverside, California 92503, USA.

LỜI NGƯỜI DỊCH
Bát Chánh đạo, giáo pháp căn bản và quan trọng nhất cho sự tu tập của Phật giáo, chúng tôi được học từ những
năm Trung cấp Phật học nhưng chỉ thuộc lòng, hiểu mơ hồ và chưa từng được dạy về cách thực hành. Thế nên, với chúng tôi thời ấy, Bát Chánh Đạo vẫn là kiến thức Phật học phổ thông, không cần thiết. Sau này, may mắn được tiếp cận, học và thực hành bát chánh đạo qua những lời dạy nguyên thủy của Đức Thế tôn, tôi nhận ra rằng một người Phật tử không thể có sự tu tập đúng hướng đưa đến chấm dứt đau khổ nếu không được học đúng, thực hành đúng bát chánh đạo. Từ đó, tôi nuôi hy vọng giới thiệu cho Phật tử Việt Nam một cuốn sách tóm tắt về Bát Chánh Đạo nhưng đầy đủ về pháp học, pháp hành và pháp thành như Đức Thế tôn đã dạy nhưng tôi vẫn chưa thực hiện được.
Qua những năm tháng làm công tác giảng dạy Phật học ở các trường Phật học Việt Nam, phiên dịch Hán tạng ra Việt ngữ và rồi được tiếp cận sách Phật học của các nhà Phật học phương Tây, tôi vẫn chưa thực hiện được hoài bão này.
Biết được nguyện vọng của tôi, thầy Tâm đạo (Eric, vị sư người Mỹ) giới thiệu sách “The Noble Eightfold Path _ Way to the End of Suffering” của Ngài Bhikkhu Bodhi (xem phần giới thiệu về tác giả) với nhã ý tôi sẽ giới thiệu cho Phật tử Việt Nam. Sau khi xem qua, tôi nhận ra đây chính là cuốn sách đúng với nguyện vọng của mình nhưng chưa làm được. Qua tác phẩm này, với sự tinh thông pháp học về Phật giáo nguyên thủy và kinh nghiệm hành trì, tác giả đã trình bày rất cô đọng nhưng đầy đủ, chính xác và rõ ràng ba lĩnh vực pháp học, pháp hành và pháp thành của Bát Chánh Đạo. Tác phẩm này có thể là cẩm nang gối đầu cho bất cứ người nào thật sự muốn đi vào con đường tu tập để chấm dứt khổ ngay trong thế giới rối ren của kiếp sống này.
Tôi giới thiệu sách với anh Tâm Cảnh _ Nguyễn Ngọc Cảnh (một Phật tử quy y Tam bảo và học Phật pháp với sự hướng dẫn của tôi). Khi biết anh Tâm Cảnh nhận ra giá trị sách này, tôi đề nghị dịch với tiêu chí “dịch để học”. Anh nhiệt tình nhận lời và chúng tôi cùng nhau hợp tác dịch tác phẩm suốt trong thời gian dịch Covid-19 từ năm 2020 đến 2021. Bản dịch hoàn tất và sửa xong tháng 03 năm 2021 _ Phật lịch 2565. Tuy cùng dịch chung nhưng cá nhân tôi chịu trách nhiệm về nội dung và Việt ngữ Phật học dùng trong bản dịch này.
Trong quá trình dịch, tôi đã tham khảo các bản Việt dịch Nikàya, nhất là dùng từ ngữ Phật học trong bản dịch Thắng pháp tập yếu luận của Ngài Trưởng lão Thích Minh Châu cho các chương Chánh niệm và Chánh định. Ngoài ra, tôi tham khảo về Tứ niệm xứ trong sách Pháp hành thiền tuệ của Ngài Trưởng lão Hộ Pháp, chùa Bửu Long.
Tôi không quên thành kính tri ân Ngài Trưởng lão Hộ Nhẫn, chùa Thiền Lâm, Huế và Ngài Trưởng lão Viên Minh, chùa Bửu Long. Hai vị thầy đã tiếp nhận và hướng dẫn tôi được tiếp cận và tu học theo những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật. Bản dịch này là pháp cúng dường đến hai Ngài, các vị thầy và các pháp hữu đã và đang cùng tôi tu học theo những lời dạy của Đức Phật.
Sau cùng, chúng tôi chân thành tri ân các Phật tử, thân quyến, bạn bè đã hỗ trợ tinh thần và vật chất để bản dịch này được xuất bản.
Chúng tôi hy vọng bản dịch này góp một phần tài liệu nhỏ cho các Phật tử Việt Nam đang có nguyện vọng tu học theo những lời dạy nguyên thủy của Đức Thế Tôn để chấm dứt khổ ngay trong kiếp sống này. Chúng tôi cũng mong rằng một ngày không xa những loại sách này được giới thiệu trong các trường Phật học ở Việt Nam.
Mùa Phật đản 2565_ năm 2021
Mindful Way Buddhist Meditation Society Tu viện Đạo Tâm
10164 Gramercy Pl
Riverside, CA 92503, USA Người dịch.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét