Thứ Ba, 22 tháng 6, 2021

Lý tưởng Ly Dục

 


LÝ TƯỞNG LY DỤC LÀ CAO NHẤT TRONG TẤT CẢ GIÁO THUYẾT.

Trên đời này trong tất cả giáo thuyết, trong tất cả giáo nghĩa, trong tất cả đường hướng lý luận học thuật chuyên môn, chuyên khoa, chuyên ngành. Trong tất cả mọi lãnh vực tri thức, tư tưởng, tâm linh, tinh thần của chúng sinh trong ba giới bốn loài thì không có cái gì mà nó hơn được lý tưởng ly dục. Vì cái lý tưởng nào cũng quẩn quanh trong tập đế - nguồn gốc đau khổ, chỉ có lời dạy ly dục của Chư Phật mới giúp ta lìa tập đế chấm dứt khổ.
Dầu cho các vị sống quẩn quanh trong sắc, thinh, khí, vị, xúc của 5 trần dục giới; hay là quý vị chìm sâu trong thiền định sắc giới, vô sắc giới, đến cái tầng cao nhất là phi tưởng phi phi tưởng. Các vị có là bác sĩ, kỹ sư, nhà ngôn ngữ học, nhà khảo cổ, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, hay là cái giống gì tôi không cần biết. Hễ các vị không sống trong lý tưởng ly dục, không sống trong tinh thần ly dục, không có nhắm tới cứu cánh ly dục thì mình cũng đời đời quẩn quanh trong cái tập đế thôi. Cho nên Ngài dạy rằng: “Lời dạy tinh hoa của Chư Phật chính là nhắm đến cái lý tưởng ly dục - tức là lìa bỏ tham ái”.
Cho nên mình niệm Phật là mình niệm Thế Tôn là nhân vật số 1 trong tất cả chúng sinh. Thứ hai giáo pháp của Thế Tôn là số 1 trong tất cả các giáo pháp bởi vì cái lý tưởng cao nhất của giáo pháp chính là ly dục. Cái định nghĩa của vấn đề này nó cao lắm. Tôi nhắc lại 1 lần nữa là ai mà chưa thấy nguy hiểm của tham ái, còn có chỗ nắm níu thì dù có được gì trong chuyện tu hành hay sự nghiệp thế gian thì còn trong bể khổ. Tin tôi đi đó là sự thật tại vì 1 vị Tu-Đà-Hườn chuyện đầu tiên ngay giây phút đầu tiên đắc đạo là vị ấy lập tức có cái câu này trong đầu liền: "yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbantaṃ nirodhadhammaṃ". Bà con ghi copy cái câu này đem liệng lên google coi người ta nhắc đến trong bao nhiêu chỗ. Câu này có nghĩa "cái gì đã sinh ra thì phải bị mất đi". Nghĩa là vị Tu-Đà-Hườn cái câu đầu tiên mà nó bung ra, bật ra, nảy ra, chói loà trong lúc vị đó đắc đạo là câu này nè. Câu này tôi thuộc lòng là câu bùa nên copy câu này đem liệng lên google coi bác ấy nói cái gì mới thấy ghê.
Cho nên lý tưởng ly dục là nó sâu thẳm, chẳng những sâu thẳm mà nó còn là toàn bộ tinh hoa của Phật Pháp, của Chư Phật ba đời mười phương. Tôi nhắc lại 1 lần nữa tại sao lý tưởng ly dục được coi là cao nhất? Là vì tất cả phàm phu đụng đâu nắm đó, sanh ra trong đống phân thì coi đống phân là số 1. Sanh ra trong 1 cái xác thúi thì coi cái xác thúi đó là số 1. Sanh ra trong cái ống cống thì coi cái ống cống đó là số 1. Sanh ra trong cái đống rác thì coi cái đống rác đó là số 1. Tức là đụng đâu nắm đó. Rồi sinh ra làm hoàng tử thì thấy cái hoàng tử đó là số 1. Sanh ra làm đại gia thì thấy cái đại gia đó là số 1. Thậm chí sanh ra làm 1 cái bà ăn mày thì lớn lên cũng vẫn thấy cái đời sống ăn mày đó có cái gì đó để mình nắm níu. Phải thấy cái đó. Nói chung là kẻ phàm phu là sanh ra ở đời đụng đâu nắm đó, đụng đâu nắm đó. Mình muốn giải thoát thành thánh nhân không còn sanh tử nữa thì cái chuyện đầu tiên phải nhớ 2 điều:
1. Điều thứ nhất là mọi thứ do duyên mà có, có rồi phải mất. Phải nhớ luôn luôn như vậy.
2. Điều thứ hai là tất cả những gì ta có được đều là cái trạm dừng chứ không có cái gì đáng để ta phải đời đời kiếp kiếp nắm níu ghì chặt không buông. Bởi vì sao ta không nên nắm níu nó? Bởi vì có tới 1001 lý do.
• Thứ nhất ta nắm níu nó ta chỉ khổ thôi, bởi vì muốn giữ mà giữ không được thì ta chỉ khổ thôi.
• Thứ hai cho dù ta có giữ nó được trăm năm nó không có mất nhưng mà cũng phải có lúc ta bỏ nó mà ta đi. Tức là nó không bỏ ta thì ta cũng phải bỏ nó. Mình sanh ra trong một cái gia đình đại gia được bố để lại cho một toà lâu đài lộng lẫy bên bờ biển tuyệt đẹp rồi thì sao? Mình ăn học mình có bằng bác sĩ, mình có vợ, mình có con rồi thì sao? Mình sống cho tới 98 tuổi trong cái lâu đài đó rồi thì sao? Tới năm 99 thì mình cũng phải lăn ra mình chết, chứ không lẽ bây giờ quý vị muốn sống bao nhiêu? Tức là tôi cho quý vị một bối cảnh mà phải nói là tuyệt hảo đó. Tới năm 99 mà không chết thì 100, mà 100 không chết thì 101, 102, 103, cũng phải chết chứ. Chưa kể cái chuyện một ông cụ 99, 100 thì các vị biết ổng xê dịch trong toà lâu đài đó nó khổ cỡ nào? Đối với ông cụ lúc đó là chỉ cần có người đẩy xe lăn là ổng mừng rồi, nếu ổng chưa bị lẫn. Chứ còn sở hữu cái toà lâu đài đó đối với cái người trăm tuổi nó rất là vô duyên, một cái gì đó rất là bẽ bàng rất là mỉa mai.
Kinh Tăng Chi - IV. Phẩm Sumanà- Bài (I) (31) Sumanà , Con Gái Vua
👤Sư Giác Nguyên giảng

Thứ Hai, 14 tháng 6, 2021

Nửa đời còn lại

 


NỬA ĐỜI VỀ SAU

*Nửa đời về sau, hãy trầm tĩnh.
Đôi khi bị người khác hiểu lầm, đừng tranh luận.
Trong cuộc sống, có nhiều chuyện khó có thể nói rõ ràng đúng sai, nhiều điều không hoàn toàn đúng hoặc hoàn toàn sai…
*Nửa đời về sau, hãy bình thản.
Người ta đến độ tuổi nào đó, tự nhiên không còn thích ồn ào.
Tâm thái bình thản giúp con người khỏe mạnh, sống lâu.
Cho dù đời sống vật chất dư dả hay túng thiếu, nội tâm bình thản là sống hạnh phúc
*Nửa đời về sau, hãy biết nhún mình.
Bất đồng ý kiến với với con cái, mâu thuẫn với bạn bè, không sao cả. Khi đó bạn hãy về làm chút việc nhà …
Trong lúc làm lụng, bạn sẽ thấy tâm trạng và suy nghĩ của mình dịu lại.
*Nửa đời về sau, đừng ân hận.
Cuộc đời là con đường dài với vô số ngã rẽ, và ta luôn luôn phải lựa chọn.
Không có cơ hội nào lặp lại nữa, lựa chọn rồi thì đừng ân hận, cũng đừng nghĩ rằng muốn làm lại từ đầu.
*Nửa đời về sau, hãy tiếp tục tìm tòi, học tập.
Đọc sách xem báo, vẽ tranh, ca hát, nghe nhạc…tất cả những thứ đó đều có thể đem lại niềm vui, làm cho mình thư thái, dễ chịu.
*Nửa đời về sau, hãy đơn giản.
Suy nghĩ quá nhiều, chỉ làm cho đời mình thêm phức tạp.
“Đơn giản” là một ân huệ mà trời ban cho chúng ta, sao lại bỏ nó đi. Cảm nhận món ngon, chơi vui đây đó, tán chuyện trên trời dưới biển với bạn bè…
*Nửa đời về sau, đôi lúc nên dễ dãi với mình.
Ăn trái cây, rau quả, thực phẩm lành mạnh là tốt rồi nhưng có lúc thèm thịt cá? Vậy thì cứ ăn đi!
*Nửa đời về sau, hãy ăn mặc đẹp.
Yêu cái đẹp là điều ta theo đuổi cả đời, đừng nghĩ mình có tuổi rồi không nên chưng diện nữa Lúc lưng còn thẳng, chân còn khỏe, hãy mặc cho đẹp cho sang…
*Nửa đời về sau, đôi lúc ngờ nghệch một chút cũng chẳng sao.
Có những chuyện cần thờ ơ thì thờ ơ. Cái gì không làm rõ được thì thôi, kệ nó. Mình có thể quên đi ai đó thì quên đi.
Nếu chỉ biết nhớ không biết quên, chỉ biết tính toán chi li, mà không biết phiên phiến cho qua, chỉ biết khôn khéo mà lại không biết vụng về… thì cuộc đời nặng nề, còn lúc nào được thanh thản.
*Nửa đời về sau, hãy mong điều may cho người khác.
Ta đối với đời thế nào, đời cũng sẽ đối với ta như thế. Hãy khen bạn bè, khen con cháu, thậm chí cả người xa lạ cũng đừng tiếc một lời đẹp! Khi mình làm cho người khác vui, mình sẽ nhận ra rằng mình cũng vui…

Thứ Ba, 8 tháng 6, 2021

Bát chánh đạo “con đường đưa đến chấm dứt đau khổ”

 


CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ

THE NOBLE EIGHTFOLD PATH “Way to the End of suffering” Nguyên tác Bhikkhu Bodhi.

LỜI TỰA
Căn bản của những lời Đức Phật dạy có thể được tóm tắt trong hai nguyên lý: Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.
Nguyên lý thứ nhất nói về bình diện học thuyết và câu trả lời tìm thấy cho chính phần này là sự hiểu biết; phần thứ hai nói về bình diện rèn luyện, dùng trong nghĩa khái quát nhất của danh từ rèn luyện và câu trả lời tìm thấy cho phần này là sự thực hành. Trong cấu trúc giáo lý của Đức Phật, hai nguyên lý này luôn liên kết vào nhau, không thể tách rời và được gọi là the Dhamma-Vinaya (pháp-luật) học thuyết-thực hành, hay gọi ngắn gọn là giáo pháp. Sự đồng nhất nội tại của giáo pháp được bảo đảm bởi phần cuối của Tứ Diệu Đế, chân lý của con đường tu tập là Bát Chánh Đạo. Trong khi yếu tố đầu tiên của Bát Chánh Đạo, chánh kiến, là sự hiểu biết đúng đắn về Tứ Diệu Đế. Như vậy, hai nguyên lý thấm nhuần với nhau và hàm chứa lẫn nhau. Công thức Tứ Diệu Đế bao gồm Bát Chánh Đạo và Bát Chánh Đạo bao gồm Tứ Diệu Đế.
Vì sự thống nhất toàn bộ này mà chúng ta không có lý gì để đặt ra câu hỏi phần nào của giáo Pháp có giá trị hơn, học thuyết hay con đường tu tập. Nếu chúng ta vẫn cố đặt ra câu hỏi này thì câu trả lời phải là con đường tu tập. Con đường tu tập chiếm được địa vị tối thượng vì tu tập mới làm cho lời Phật dạy trở nên sống động. Con đường tu tập biến đổi giáo pháp từ một tập tài liệu ghi chép những công thức trừu tượng thành một quá trình liên tục tiết lộ cho thấy chân lý. Nó tạo một lối thoát cho vấn nạn khổ và khổ là nguyên nhân khởi đầu giáo lý của Đức Phật. Nó làm mục đích của những lời Phật dạy, giải thóat khỏi vòng đau khổ. Chúng ta có thể đạt đến con đường tu tập trong kinh nghiệm bản thân của mỗi người nơi mà chỉ riêng sự tu tập mới có ý nghĩa đích thực.
Đi theo con đường Bát Chánh Đạo là việc thực hành hơn là kiến thức hiểu biết nhưng đi cho đúng đường thì phải hiểu biết đúng ý nghĩa. Thật ra, sự thông hiểu chính xác con đường tu tập tự nó là một phần của tu tập. Nó là một bình diện của chánh kiến, là nhân tố đầu tiên làm tiên phong và dẫn đường cho suốt tiến trình tu tập. Như vậy, mặc dầu vì sự hăng hái tu tập lúc ban đầu, chúng ta có thể cho rằng sự hiểu biết trí tuệ có thể được xem như một sự xao lãng phiền hà và nên xếp bỏ qua một bên nhưng suy nghĩ một cách nghiêm túc, chúng ta thấy nó rất cần thiết cho thành quả cuối cùng của tu tập.
Cuốn sách này nhắm mục đích góp phần vào sự tìm hiểu Bát Chánh Đạo một cách chính xác bằng cách tìm hiểu tám nhân tố của tiến trình tu tập và chúng liên đới với nhau như thế nào. Tôi cố gắng viết thật súc tích. Để làm khuôn mẫu cho sự trình bày, tôi dùng chính lời dạy của Đức Phật trong kinh tạng Pàli để giải nghĩa những nhân tố của con đường tu tập. Để giúp những độc giả không có được nhiều tài liệu gốc, ngay cả qua các bản dịch mà không được hoàn toàn như ý muốn, tôi vẫn cố gắng giới hạn tối đa các lời trích dẫn của tôi trong những trích dẫn được dùng trong hợp tuyển Lời Phật Dạy trong kinh tạng của Ngài Nyanatiloka. Trong vài trường hợp, có những đoạn trích dẫn từ tác phẩm này được thay đổi đôi chút để phù hợp với cách diễn đạt của riêng tôi. Để mở rộng thêm ý nghĩa, đôi khi tôi trích dịch từ các bài bình luận. Nhất là trong phần trình bày về Chánh Định và Trí Tuệ (Chương VII và Chương VIII), tôi dựa rất nhiều vào bộ sách Visuddhimagga (Con Đường Thanh Tịnh), một bộ bách khoa vĩ đại hệ thống hóa sự tu tập một cách chi tiết và rất đầy đủ. Vì khuôn khổ giới hạn của cuốn sách, tôi không thể trình bày hết sức đầy đủ cho mỗi một nhân tố. Để bù lại cho sự khiếm khuyết này, tôi liệt kê một số tài liệu chọn lọc ở cuối sách để độc giả có thể tham khảo tìm hiểu các dẫn giải có nhiều chi tiết hơn. Tuy thế, để bảo đảm hoàn toàn cho việc tu tập theo bát chánh đạo, nhất là vào các giai đoạn cao của định và tuệ, nếu được sự hướng dẫn từ một vị thầy đầy đủ khả năng thì sẽ vô cùng hữu ích.



CHƯƠNG I
Con Đường Đưa Đến Diệt Khổ
Đi tìm một con đường tâm linh khởi nguồn từ đau khổ, nó không bắt đầu với tri thức và trạng thái hạnh phúc (từ sự thực hành theo niềm tin tôn giáo. ND) nhưng với nhiều nghi vấn khó hiểu làm nhức nhối, thất vọng và rối loạn tâm trí. Tuy nhiên, để cho đau khổ dẫn ta vào sự tìm tòi thật sự đến con đường tâm linh nó phải đạt đến một mức cao hơn những gì chúng ta thụ động nhận lấy từ bên ngoài. Nó phải làm phát sinh một sự ý thức nội tâm, một sự cảm nhận làm tan vỡ sự tự mãn dễ dàng của chúng ta khi tiếp xúc bình thường với thế giới bên ngoài để có thể nhìn thoáng qua tinh thần bất ổn luôn luôn hiện hữu bên trong. Khi sự hiểu biết sâu sắc này bừng sáng lên, dầu chỉ trong giây phút, sẽ tức khắc tạo ra khủng hoảng trong cá nhân ta thật sâu xa. Nó làm đảo lộn các mục tiêu, giá trị quen thuộc, xem thường những lo lắng thường nhật của ta, làm cho những niềm vui cũ mất hết thú vị.
Lúc đầu những sự thay đổi này thường không được chúng ta vui vẻ đón nhận. Chúng ta cố chối bỏ cái viễn ảnh mới mẻ này và bóp chết các nghi vấn. Chúng ta tranh đấu xua đuổi sự bất mãn này với những theo đuổi mới. Nhưng ngọn lửa tò mò khi đã thắp lên sẽ tiếp tục cháy mãi, nếu chúng ta không để mình cuốn theo những thích nghi hời hợt, buông tay trở lại với một giải thích vá víu biện hộ cho sự lạc quan tự nhiên của mình thì cuối cùng ánh sáng yếu ớt lúc đầu của sự hiểu biết thâm sâu ấy sẽ vụt chói lên, một lần nữa sẽ đưa ta giáp mặt với cảnh ngộ thực tế của mình. Chính ở thời điểm này, khi tất cả các lối thoát đã bị chặn, chúng ta sẵn sàng tìm một con đường chấm dứt sự bất an trong lòng. Chúng ta không còn có thể tiếp tục tự mãn trôi dạt trong cuộc đời, thúc đẩy bởi sự thèm khát dục lạc của năm giác quan và áp lực của những thói thường trong xã hội. Một thực tại sâu sắc hơn mời gọi chúng ta. Chúng ta đã nghe tiếng gọi của hạnh phúc chắc chắn và trung thực hơn. Cho đến khi chưa đến đích, chúng ta không thể mãn nguyện.
Nhưng chính vào lúc này, chúng ta gặp phải một khó khăn mới. Khi nhận ra cần có con đường tâm linh, chúng ta khám phá ra rằng các giáo lý về tâm linh không thuần túy giống nhau và tương hợp với nhau. Khi xem lược qua các tủ sách nói về di sản tâm linh của nhân loại, cổ xưa cũng như cận đại, chúng ta không tìm thấy một cuốn nào thật đơn thuần mà chỉ thấy giống như là một cửa hàng tạp hóa bày đầy những hệ thống, ban ngành và tất cả đều muốn cống hiến cho ta cái cao xa nhất, nhanh chóng nhất, có quyền lực nhất hay một giải pháp sâu sắc nhất cho sự tìm kiếm nguyên lý tối hậu của chúng ta. Đối diện với sự hỗn tạp này, tâm trí chúng ta bị rối tung lên khi cố gắng đánh giá, để quyết đoán xem học thuyết nào thật sự giải thoát, thật sự đáp ứng được các nhu cầu của mình và đường nào đi sai chứa đầy những khuyết điểm bên trong.
Ngày nay, một cách thông dụng dùng để giải quyết vấn đề là chiết trung, từ nhiều truyền thống, chọn lấy bất cứ cái gì có vẻ hòa hợp với nhu cầu của mình, kết nối những sự thực hành và kỹ xảo khác nhau vào chung một tổng hợp theo ý mình. Như vậy, người ta có thể tập hợp môn thiền chánh niệm của Phật giáo với sự tụng niệm thần chú của Ấn giáo; cầu nguyện của Ki Tô giáo với thiền múa Sufi; Kabbala của Do Thái giáo với cách thực tập quán tưởng của Tây Tạng. Tuy rằng, đôi khi phương pháp chiết trung có thể giúp chúng ta chuyển tiếp từ lối sống nặng về thế tục và vật chất qua lối sống lấy thêm màu sắc tinh thần nhưng cuối cùng phương pháp này cũng sẽ mất dần hiệu quả. Bởi vì, nó có thể dùng như một quán trọ tiện nghi giữa đường nhưng không phải là một chiếc xe thuận tiện để đến điểm cuối.
Phương pháp chiết trung có hai thiếu sót quan hệ với nhau, cuối cùng làm cho nó bị khiếm khuyết. Một là nó làm giảm giá trị của chính những truyền thống mà nó vay mượn. Những truyền thống nổi tiếng thuộc tinh thần không đề xướng học thuyết của họ như là những kỹ thuật từng phần độc lập để chúng ta có thể cắt xén ra khỏi bối cảnh của chúng và tự do kết hợp để nâng cao phẩm chất mình cảm nhận trong cuộc đời. Họ trình bày như là những phần của một toàn thể, một tầm nhìn có kết cấu mạch lạc về bản chất căn bản của thực tại và mục đích cuối cùng trong nỗ lực tìm kiếm về tâm linh. Truyền thống tâm linh không phải là một con suối cạn để cho chúng ta nhúng ướt chân rồi lui vội vào bờ. Nó là một con sông hùng vĩ cuồn cuộn chảy nhanh qua khắp bối cảnh của đời ta. Nếu muốn đi trên giòng sông đó, chúng ta phải đủ can đảm lao thuyền xuống sông và chèo ra vực nước sâu.
Khuyết điểm thứ hai của phương pháp chiết trung từ khuyết điểm thứ nhất. Tại vì những cách tu tập về tâm linh được xây dựng trên những tầm nhìn về bản chất của thực tại và lợi ích cuối cùng, những tầm nhìn này lại không tương hợp với nhau.
Khi thành thật nghiên cứu giáo lý của các truyền thống này, chúng ta sẽ thấy những khác biệt chính yếu về quan điểm hiện rõ trước mắt chúng ta. Những khác biệt đó không dễ được thông qua như những cách nói khác nhau dùng để chỉ về cùng một vấn đề. Thay vào đó, họ dẫn ra những kinh nghiệm rất khác nhau để đưa đến mục đích cuối cùng và con đường phải đi qua để đạt đến mục đích đó.
Do đó, vì những điểm dị đồng về quan điểm và thực hành của các truyền thống tâm linh khác nhau, khi chúng ta quyết định vượt qua phương pháp chiết trung và cảm thấy mình sẵn sàng nghiêm túc dấn thân vào một con đường nào đó thì chúng ta sẽ thấy bị khó khăn trong sự lựa chọn một con đường để đưa đến giác ngộ và giải thoát thật sự. Một gợi ý nhằm giải quyết vấn đề lưỡng nan này là tự mình phải làm sáng tỏ cho chính mình về mục tiêu chính yếu của đời mình, để quyết định đi tìm những gì trên con đường giải thoát thật sự. Nếu suy tư cẩn thận thì chúng ta sẽ thấy rõ điều bắt buộc quan trọng nhất là tìm con đường dẫn đến thoát đau khổ. Tất cả mọi vấn đề cuối cùng sẽ thu gọn vào khổ đế. Như vậy, điều chúng ta cần là một đường lối chấm dứt hoàn toàn vấn nạn này đến tận cuối. Cả hai điều kiện này rất quan trọng. Con đường phải dẫn đến sự chấm dứt hoàn toàn đau khổ, chấm dứt đau khổ dưới mọi hình thức và đến tận cùng của đau khổ, làm cho đau khổ mất hẳn không phát sinh trở lại.
Nhưng ở đây chúng ta gặp phải một câu hỏi khác nữa. Làm sao chúng ta tìm ra con đường như vậy, một con đường có khả năng đưa đến chỗ chấm dứt hoàn toàn đau khổ đến tận cùng? Ngoại trừ thật sự đạt đến mục tiêu của con đường, chúng ta không biết chắc chắn nó sẽ đưa mình đến đâu. Để theo con đường đến đựơc mục tiêu, chúng ta phải đặt hết lòng tin vào hiệu quả của nó. Theo đuổi một con đường tâm linh không giống như chọn lựa một bộ đồ mới. Để chọn một bộ đồ mới, người ta chỉ cần mặc thử một vài bộ, ngắm mình trong gương và lựa bộ nào thấy đẹp nhất. Chọn lựa một đường tâm linh tựa như hôn nhân: Người ta muốn có một bạn đời trăm năm, một người bạn đồng hành với tình nghĩa sẽ được chứng minh bằng sự đáng tin cậy và bền lâu như sao bắc đẩu trên trời đêm.
Đối diện với vấn đề lưỡng nan mới này, chúng ta có thể thấy mình đã vào ngõ cụt và kết luận rằng không có gì để hướng dẫn cho mình trừ khuynh hướng cá nhân nếu không muốn nói ném đồng tiền xem sấp ngữa ra sao. Tuy thế, sự chọn lựa của chúng ta không cần phải mù quáng và thiếu ý thức như mình tưởng tượng vì chúng ta có nguyên tắc hướng dẫn. Những lối đi tâm linh thường được trình bày trong khuôn khổ một giáo lý tổng quát, chúng ta có thể thẩm định sự hiệu quả của một con đường nào đó bằng cách tìm hiểu giáo lý dẫn giải nó.
(1) Đầu tiên, giáo lý ấy phải diễn tả một bức tranh đầy đủ và chính xác phạm vi của đau khổ. Nếu phạm vi của đau khổ được đưa ra không đầy đủ hoặc khiếm khuyết, con đường đưa ra hầu như bị thiếu sót, không đủ khả năng tạo được một giải pháp thỏa đáng. Tương tự như bệnh nhân cần bác sĩ chẩn bệnh đúng và đầy đủ cho căn bệnh của mình, để được thoát khỏi đau khổ, chúng ta cần một giáo lý trình bày một sự mô tả đáng tin cậy với hoàn cảnh của mình.
(2) Tiêu chuẩn thứ hai đòi phải có sự phân tích đúng đắn những nguyên nhân gây ra đau khổ. Giáo lý không thể chỉ dừng lại với sự quan sát tổng quát những triệu chứng bên ngoài. Nó phải đào sâu tận triệu chứng đến mức nguyên nhân và nó phải diễn tả các nguyên nhân thật chính xác. Nếu giáo lý phân tích nguyên nhân bị sai lầm thì rất khó cho sự điều trị thành công.
(3) Tiêu chuẩn thứ ba liên quan đến chính con đường. Nó qui định rõ là con đường do giáo lý vạch ra phải chấm dứt đau khổ tận gốc. Điều này có nghĩa là nó phải đưa ra một phương pháp chấm dứt đau khổ bằng cách trừ khử các nguyên nhân. Nếu nó thất bại không đem lại được giải pháp căn bản này thì cuối cùng, giá trị của nó là con số không. Con đường mà nó vạch ra có thể giúp ta trừ bỏ được chứng bệnh và làm cho ta thấy mọi sự an lành. Như một người bị căn bệnh hiểm nghèo, không thể cho giải phẩu thẩm mỹ là đủ; trong khi dưới bề mặt, nguyên nhân căn bệnh vẫn tiếp tục phát triển.
Tóm lại, chúng ta thấy có ba yêu cầu trong những giáo lý đề xướng một giải pháp trung thực đưa đến chấm dứt khổ: Thứ nhất, nó phải đưa ra một bức tranh mô tả đầy đủ và chính xác về phạm vi của khổ. Thứ hai, nó phải trình bày một sự phân tích chính xác các nguyên nhân của khổ. Thứ ba, nó phải cho chúng ta phương pháp chấm dứt các nguyên nhân của khổ.
Đây không phải là nơi để chúng ta thẩm định những học thuyết tâm linh căn cứ vào các tiêu chuẩn vừa nêu trên. Vấn đề của chúng ta chỉ liên quan với Giáo Pháp, lời dạy của Đức Phật với giải pháp mà giáo lý này đưa cho vấn nạn khổ. Giáo Pháp của Đức Phật thích đáng với vấn nạn này rất rõ ràng ngay trong chính bản chất của nó. Bởi vì nó được cấu trúc không phải như một bộ triết thuyết nói về sự bắt đầu và chấm dứt khổ theo những yêu cầu bằng tín ngưỡng nhưng như là một thông điệp giải thoát khỏi đau khổ được xem có thể chứng nghiệm được ngay trong kinh nghiệm riêng của chính mình. Cùng đi với thông điệp đó, có phương pháp thực hành, một con đường dẫn đến nơi tận cùng của sự chấm dứt khổ. Con đường này là Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo là giáo ý trung tâm của Đức Phật. Chính sự khám phá ra con đường này đem đến cho sự giác ngộ riêng của Đức Phật một ý nghĩa toàn diện và đưa Ngài từ tư cách của một vị hiền triết khôn ngoan và nhân từ lên địa vị của một bậc Đạo sư trên thế giới. Đối với đệ tử, Ngài là “người khởi xướng con đường chưa được ai khởi xướng trước đây, người tạo dựng một con đường chưa được ai tạo dựng trước đây, người nêu ra con đường chưa được ai nêu ra trước đây, người thấy trước con đường, người biết con đường, người hướng đạo của con đường.” (Trung Bộ. 100).” Và chính Ngài gọi mời mọi người đi tìm giải thoát với một lời hứa và thử thách, “Chính các bạn phải nỗ lực. Các Đức Phật chỉ là vị thầy. Những ai nhiệt tâm thực hành con đường này, được giải thoát khỏi sự trói buộc của ác ma.” (Pháp cú. 276).
Muốn xem Bát Chánh Đạo như một phương tiện chắc chắn đưa đến giải thoát, chúng ta phải xét lại theo ba tiêu chuẩn ở trên: Nhìn vào sự tường thuật của Đức Phật về phạm vi của khổ, sự phân tích các nguyên nhân của khổ và chương trình Ngài đưa ra để chữa trị hết khổ.


Phạm vi của khổ
Không những Đức Phật không bàn đến vấn đề khổ một cách hời hợt mà Ngài còn lấy nó làm cột trụ cho giáo lý của Ngài. Ngài bắt đầu với Tứ Diệu Đế, tóm tắt thông điệp của Ngài tuyên bố cuộc đời luôn luôn gắn liền với dukkha. Danh từ Pàli này thường được dịch ra là đau đớn, khổ sở, nhưng nó hàm ý nhiều vấn đề sâu xa hơn là đau đớn và khổ sở. Nó nói đến tất cả sự bất mãn trong suốt cuộc đời của mọi người trừ những người đã đạt được giác ngộ. Đôi khi sự bất mãn này bùng nổ ra bên ngoài thành buồn rầu, thương tiếc hay thất vọng. Nhưng thường thường, nó quanh quẩn bên lề nhận thức của chúng ta như một sự cảm nhận mơ hồ không rõ ở đâu là mọi việc không phải lúc nào cũng hoàn hảo, không bao giờ hoàn toàn đầy đủ như mình mong muốn nó phải như vậy. Đối với sự thật của dukkha, Đức Phật dạy nó là một vấn đề tâm linh thật sự. Với những vấn đề khác, những nghi vấn thần học và siêu hình đã từng thách thố những tư tưởng gia tôn giáo qua nhiều thế kỷ, Ngài nhẹ nhàng xua tay đẩy qua một bên xem như “những việc không lợi gì cho giải thoát”. Ngài nói Ngài chỉ dạy về đau khổ và chấm dứt đau khổ, dukkha và chấm dứt nó.
Đức Phật không dừng lại ở những vấn đề tổng quát về khổ. Ngài tiếp tục phơi bày nhiều hình thức của khổ, gồm cả hai khía cạnh hiển nhiên và tinh tế khó thấy. Ngài bắt đầu với những gì có trước mắt, những nỗi khổ có sẵn trong diễn tiến vật chất của chính đời sống. Ở đây, khổ xảy đến trong các sự kiện sinh, già, chết, dễ mắc bịnh, hay gặp tai nạn, hay bị thương tích, ngay cả trong đói khát. Nó xuất hiện trở lại trong các phản ứng nội tâm của chúng ta với những hoàn cảnh ấy và các sự cố không vừa lòng, trong buồn rầu hờn giận, tức bực và lo sợ bị khuấy động lên bởi những chia cách đau lòng, những gặp gỡ không vui, những thất bại vì không tìm thấy những gì mình ước muốn. Đức Phật nói ngay cả lạc thú cũng không tránh khỏi khổ. Nó đem cho ta hạnh phúc khi nó còn nhưng nó không còn mãi mãi; cuối cùng nó cũng phải đi qua và khi nó đi qua rồi, để lại sự mất mát cho ta cảm giác bị tước đoạt. Cả cuộc đời, ta bị níu kéo giữa thèm khát lạc thú và lo sợ đau đớn. Chúng ta sống qua từng ngày, đuổi theo cái này hoặc chạy trốn cái kia, ít khi được hưởng sự bình an cuả thỏa mãn; sự thỏa mãn thật sự hình như lúc nào cũng nằm ngoài tầm tay, chỉ ở bên kia chân trời sắp đến. Thế rồi, cuối cùng chúng ta phải chết, từ bỏ cá nhân con người mà mình sống cả đời để tạo dựng, bỏ lại sau lưng những thứ, những người mình thương mến.
Nhưng Phật dạy, ngay cả chết cũng chưa chấm dứt được dukkha vì tiến trình của đời sống không dừng lại ở cái chết. Khi cuộc sống chấm dứt ở một nơi, với một thân xác thì “sự tiệm tiến của tinh thần,” giòng tâm thức cá nhân lại sinh ra ở một nơi khác với một cơ thể mới làm nguồn sống cho thể chất. Như vậy, cái chu kỳ này tiếp tục tái hiện: sinh, già, chết, bị thúc đẩy bởi sự khát vọng được sống mãi. Đức Phật tuyên bố cái vòng tái sinh này gọi là samsara, “đi lang thang”, đã quay mãi từ thời vô thủy. Nó không có điểm khởi đầu, không có nguồn gốc thời gian. Chúng ta có đi ngược thời gian bao lâu đi nữa thì chúng ta vẫn luôn luôn tìm thấy sinh vật, chính chúng ta ở bao kiếp trước, đi lang thang từ trạng thái hiện hữu này qua trạng thái hiện hữu khác. Đức Phật mô tả nhiều thế giới khác nhau nơi chúng ta có thể tái sinh: những địa ngục, thế giới súc sinh, thế giới nhân sinh và những cõi trời. Nhưng không có thế giới nào là chỗ ở vĩnh viễn. Đời sống ở bất cứ cõi nào cũng có ngày hết. Nó vô thường và như vậy đậm màu bất an và đó là ý nghĩa sâu xa nhất của dukkha. Chính vì vậy, người nào mong muốn hoàn toàn chấm dứt dukkha thì không thể bằng lòng với bất cứ thành đạt, bất cứ địa vị trần tục nào mà phải tìm cách giải thoát khỏi toàn thể vòng xoáy bất an này.


Nguyên nhân của khổ
Như chúng ta đã nói, một giáo lý đề ra cách đưa đến chấm dứt khổ phải giải thích chính xác đầy đủ những nguyên nhân nguồn gốc của khổ. Nếu chúng ta muốn ngăn chặn đau khổ thì phải ngăn lại từ nơi phát sinh với tất cả nguyên nhân của nó. Ngăn chặn nguyên nhân đòi hỏi chúng ta phải có kiến thức đầy đủ biết rõ chúng là gì và hoạt động như thế nào. Vì vậy, Đức Phật dành riêng một phần lớn giáo lý của Ngài để phơi bày “sự thật về nguồn gốc của khổ.” Ngài xác định nó ở trong ta. Có một chứng bệnh căn bản tràn ngập thân ta, gây xáo trộn tâm trí ta, vô hiệu hoá các mối liên hệ giữa ta với người khác và với thế giới. Dấu hiệu của căn bệnh này, có thể thấy trong xu hướng thiên về một số các trạng thái tinh thần bất thiện mà tiếng pàli gọi là kilesas, thường được dịch ra là “phiền não.” Những phiền não căn bản là ba loại: tham lam, sân hận và si mê. Tham (lobha) là tham muốn cho mình, tham muốn khoái lạc và tiền của, động lực sống còn, sự thúc dục nâng cao bản ngã với quyền lực, địa vị và uy tín. Sân hận (dosa) biểu thị phản ứng phủ nhận, bộc lộ qua sự chối bỏ, bực tức, nguyền rủa, ghét bỏ, thù nghịch, giận dữ và hung bạo. Si mê (moha) có nghĩa tinh thần tối tăm: một lớp vô cảm dày đặc ngăn chặn khả năng hiểu biết sáng suốt.
Từ ba căn bản này xuất hiện nhiều phiền não khác nhau - tự phụ, ganh ghét, tham vọng, thờ ơ, kiêu căng và những tánh xấu còn lại. Từ tất cả các phiền não này cọng lại, từ căn bản đến chi nhánh, lộ dạng dukkha trong các hình thức khác nhau: đau đớn và buồn rầu, sợ hãi và bất bình, như trôi nổi vô định trong vòng sinh tử. Để được giải thoát khỏi đau khổ chúng ta phải lọai bỏ hết tất cả phiền não. Nhưng sự tu tập loại trừ phiền não phải tiến hành một cách có phương pháp. Nó không thể được hoàn thành chỉ bằng quyết định của ý chí, bằng cách muốn chúng biến mất đi. Sự tu tập này phải được hướng dẫn bằng điều tra nghiên cứu. Chúng ta phải tìm ra phiền não tùy thuộc vào những gì và rồi nhận ra bằng cách gì chúng ta có thể dùng năng lực của mình để loại bỏ điểm tựa của chúng.
Đức Phật dạy có một loại phiền não làm nẩy sinh ra tất cả những phiền não khác, căn bản này nắm giữ tất cả các phiền não. Căn bản đó là vô minh (avijjà) (1). Vô minh không phải chỉ là sự vắng mặt của kiến thức, thiếu hiểu biết một số thông tin đặc thù nào đó. Vô minh có thể xảy ra trong lúc chúng ta đã tích lũy được nhiều kiến thức với vô số chi tiết và theo cách riêng của nó, nó có thể vô cùng sắc sảo và biết ứng biến trong mọi trường hợp. Vô minh là nguồn gốc của khổ vì căn bản của nó là bóng tối che mờ tâm trí. Đôi khi vô minh hoạt động một cách tiêu cực, chỉ làm tâm trí tăm tối không cho ta hiểu biết đúng. Những lúc khác, nó đóng một vai trò chủ động, đánh lừa rất tài tình, tạo ra nhận thức và khái niệm méo mó mà tâm trí cho là đặc tính của thế gian, không ngờ đó là những tạo tác dối lừa của chính vô minh.
Từ những nhận thức và khái niệm sai lầm này, chúng ta tìm thấy mảnh đất nuôi dưỡng phiền não. Tâm trí thấy được triển vọng nào đó của lạc thú, chấp nhận giá trị bề ngoài của nó và kết quả là tham lam. Khi sự thèm khát được thụ hưởng bị ngăn chặn thì trở ngại hiện lên, tức giận và thù ghét bộc phát. Khi chúng ta vật lộn với những sự việc mơ hồ, nhận thức của ta bị che mờ và chúng ta đi lạc vào ảo tưởng. Những phiền não nầy là vùng đất sinh sản ra khổ: vô minh sinh ra phiền não và phiền não sinh ra khổ đế. Khi màng lưới nhân duyên này còn vững chắc thì chúng ta còn trong nguy hiểm. Chúng ta vẫn còn có thể tìm được lạc thú và hưởng thụ, lạc thú của giác quan, lạc thú của xã hội, lạc thú của tâm trí và con tim. Nhưng dù được hưởng bao nhiêu lạc thú, dù thành công do tránh né được đau khổ đến đâu thì căn bản của phiền não vẫn còn trong con người của chúng ta và chúng ta còn phải tiếp tục bước đi trong vòng kiềm hãm của đau khổ.
Chấm dứt nguyên nhân của khổ
Để giải thoát toàn bộ đau khổ, chúng ta phải diệt nó từ cội rễ, nghĩa là phải diệt vô minh. Nhưng bằng cách nào chúng ta diệt được vô minh? Câu trả lời rõ ràng đi theo tính chất của đối tượng. Vì vô minh là trạng thái nhận thức sự vật không đúng như chúng đang thật sự hiện hữu, cái cần có là nhận thức về sự vật đúng như chúng đang là. Không những chỉ kiến thức bằng khái niệm, kiến thức như ý tưởng, mà là kiến thức bằng hiểu biết, biết cũng là thấy. Sự hiểu biết này được gọi là trí tuệ (paññà). Trí tuệ giúp ta sửa sai những sự xuyên tạc của vô minh. Trí tuệ cho ta khả năng thấu hiểu sự thật của sự vật trong bản chất thật sự của chúng, trực tiếp và ngay tức khắc, không bị ngăn che bởi bình phong của những ý tưởng, quan điểm và giả thiết mà các loại tâm của ta thường dựng lên giữa chúng và sự thật.
Để diệt vô minh chúng ta cần có trí tuệ, nhưng bằng cách gì để có trí tuệ? Là nhận thức không còn chút phân vân về tất cả bản chất của sự vật, trí tuệ không thể đạt được chỉ bằng học vấn hay bằng cách thu thập và tích trữ một khối dữ kiện. Tuy nhiên, Đức Phật nói, trí tuệ có thể đạt được do tu tập. Nó hình thành qua một số những điều kiện, những điều kiện mà chúng ta có thể phát triển bằng năng lực. Những điều kiện này thật ra là những nhân tố tinh thần, thành phần của tri thức, nằm trong một cơ cấu có hệ thống có thể gọi là một con đường đúng theo nghĩa chính của danh từ này: một đường đi hướng đúng về một mục tiêu. Mục tiêu ở đây là chấm dứt đau khổ và đường đi dẫn đến đó là Bát Chánh Đạo với tám thành tố: chánh kiến, chánh chủ ý (tư duy), chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Đức Phật gọi con đường này là trung đạo (majjhimà patipadà). Trung đạo vì nó vượt ra cả hai cực đoan, hai loại nỗ lực sai lầm để thóat ly đau khổ. Một là đam mê dục lạc tối đa, nỗ lực dập tắt bất mãn bằng cách thỏa mãn ham muốn. Phương pháp này đem khoái lạc đến cho ta nhưng sự hưởng thụ có được rất dung tục, tạm bợ và không có sự mãn nguyện thâm sâu. Đức Phật ý thức rằng đam mê nhục dục có khả năng kìm hãm tâm trí con người rất chặt chẽ và Ngài cũng nhận thấy rõ ràng loài người lại luôn mê say gắn bó với lạc thú của giác quan. Đồng thời, Ngài cũng biết lạc thú này thấp hèn thua hẳn hạnh phúc phát sinh từ sự ly dục và vì thế Ngài luôn luôn dạy rằng con đường dẫn đến mục đích chính yếu cuối cùng đòi hỏi phải từ bỏ nhục dục. Vì vậy mà Đức Phật diễn tả say đắm trong lạc thú nhục dục là “thấp hèn, tầm thường, trần tục, đê tiện, không đưa đến mục đích thoát khổ (Kinh Chuyển pháp luân. ND).
Cực đoan kia là sự thực hành khổ hạnh, sự nỗ lực đạt đến giải thoát bằng cách tự hành hạ thân xác. Phương pháp này có thể bắt nguồn từ ước vọng thật sự mong muốn giải thoát nhưng hành động theo sự hướng đạo của một giả định sai lầm làm cho nghị lực bị tiêu hao, không có kết quả. Sự sai lầm này cho rằng thân xác là nguyên nhân của sự lệ thuộc trong khi nguồn gốc thật sự của đau khổ nằm trong tâm. Tâm bị ám ảnh bởi tham, sân và si. Để giải thoát tâm ra khỏi các phiền não bằng cách hành hạ thân xác thì không những vô ích mà còn tự tiêu diệt mình. Bởi vì nó tàn hại một công cụ cần thiết (thân thể.ND). Vì thế, Đức Phật diễn tả cực đoan thứ hai này là: “Đau đớn, thấp hèn, không dẫn đến mục tiêu” (giải thoát đau khổ.ND) (2).
Đứng ngoài hai phương pháp cực đoan này là Bát Chánh Đạo, gọi là trung đạo, không có nghĩa là thỏa hiệp giữa hai cực đoan, nhưng có nghĩa vượt lên trên cả hai bằng cách tránh những sai lầm mỗi bên gây nên. Trung đạo tránh sự thái quá về nhục dục bằng cách thừa nhận sự phù phiếm của ham muốn và sự vô ích khi nhấn mạnh việc từ bỏ thân xác. Ham muốn và nhục dục không bao giờ là phương tiện tạo hạnh phúc. Chúng là động lực gây ra đau khổ mà chúng ta phải từ bỏ như là điều kiện tiên quyết của giải thoát. Luyện tập ly dục không hàm chứa việc giày vò thân xác. Nó bao gồm luyện tập về tinh thần và cơ thể cần phải khỏe mạnh để hỗ trợ cho hoạt động của tinh thần. Như vậy cơ thể cần được chăm sóc đàng hoàng, gìn giữ sức khỏe đồng thời những khả năng tinh thần được huấn luyện để phát sinh trí tuệ giải thoát. Đây là trung đạo, Bát Chánh Đạo, làm “phát sinh nhận thức, phát sinh hiểu biết và dẫn đến bình yên, đến hiểu biết trực tiếp, đến giác ngộ, đến niết bàn.”(3)


PHẦN KẾT
Đến đây, hoàn tất phần nghiên cứu của chúng ta về Bát thánh đạo, con đường thoát khổ do Đức Phật dạy. Những
thành tựu cao thượng của thánh đạo dường như còn xa với vị trí hiện tại của chúng ta. Những đòi hỏi của sự tu tập có thể khó thực hiện. Nhưng ngay cả trong hiện tại, khi những đỉnh cao của giác ngộ vẫn còn xa thì tất cả những gì chúng ta cần đạt đến đang nằm ngay dưới chân mình. Tám chi phần của thánh đạo đang luôn luôn tiếp cận với chúng ta. Chúng là những thành phần thuộc tinh thần mà chúng ta có thể xây dựng trong tâm thức chỉ bằng kiên quyết và tinh tấn. Chúng ta phải bắt đầu bằng cách điều chỉnh nhận thức theo quan điểm đúng và làm trong sáng chủ ý của mình. Sau đó, chúng ta phải làm thanh tịnh tư cách đạo đức: lời nói, hành động và nghề nghiệp. Dùng những tiêu chuẩn này làm nền tảng, chúng ta phải tự rèn luyện bằng nghị lực và quán niệm để phát triển định và tuệ. Phần còn lại là tu tập từ từ và tiến bộ từ từ, không mong cầu kết quả nhanh chóng. Một số người có thể tiến bộ nhanh, một số khác có thể chậm nhưng tốc độ nhanh chậm không phải là lý do để tự đắc hay thối chí. Giải thoát là kết quả tất nhiên của thánh đạo và khi tu tập đều đặn và kiên trì, chắc chắn sẽ nở hoa giác ngộ. Hai điều kiện cần thiết để đạt đến mục đích cuối cùng: bắt đầu và tiếp tục. Nếu những điều kiện này được hội tụ thì sẽ đạt đến mục đích, không do dự nữa. Đây là giáo pháp, quy luật luôn luôn đúng hướng.
Cùng dịch với PT Tâm cảnh.
sửa xong ngày 22 tháng 03 năm 2021 _ Phật lịch 2565.
Tỳ khưu Tâm hạnh
Mindful Way Buddhist Meditation Society
Tu viện Đạo tâm
10164 Gramercy Pl
Riverside, California 92503, USA.

LỜI NGƯỜI DỊCH
Bát Chánh đạo, giáo pháp căn bản và quan trọng nhất cho sự tu tập của Phật giáo, chúng tôi được học từ những
năm Trung cấp Phật học nhưng chỉ thuộc lòng, hiểu mơ hồ và chưa từng được dạy về cách thực hành. Thế nên, với chúng tôi thời ấy, Bát Chánh Đạo vẫn là kiến thức Phật học phổ thông, không cần thiết. Sau này, may mắn được tiếp cận, học và thực hành bát chánh đạo qua những lời dạy nguyên thủy của Đức Thế tôn, tôi nhận ra rằng một người Phật tử không thể có sự tu tập đúng hướng đưa đến chấm dứt đau khổ nếu không được học đúng, thực hành đúng bát chánh đạo. Từ đó, tôi nuôi hy vọng giới thiệu cho Phật tử Việt Nam một cuốn sách tóm tắt về Bát Chánh Đạo nhưng đầy đủ về pháp học, pháp hành và pháp thành như Đức Thế tôn đã dạy nhưng tôi vẫn chưa thực hiện được.
Qua những năm tháng làm công tác giảng dạy Phật học ở các trường Phật học Việt Nam, phiên dịch Hán tạng ra Việt ngữ và rồi được tiếp cận sách Phật học của các nhà Phật học phương Tây, tôi vẫn chưa thực hiện được hoài bão này.
Biết được nguyện vọng của tôi, thầy Tâm đạo (Eric, vị sư người Mỹ) giới thiệu sách “The Noble Eightfold Path _ Way to the End of Suffering” của Ngài Bhikkhu Bodhi (xem phần giới thiệu về tác giả) với nhã ý tôi sẽ giới thiệu cho Phật tử Việt Nam. Sau khi xem qua, tôi nhận ra đây chính là cuốn sách đúng với nguyện vọng của mình nhưng chưa làm được. Qua tác phẩm này, với sự tinh thông pháp học về Phật giáo nguyên thủy và kinh nghiệm hành trì, tác giả đã trình bày rất cô đọng nhưng đầy đủ, chính xác và rõ ràng ba lĩnh vực pháp học, pháp hành và pháp thành của Bát Chánh Đạo. Tác phẩm này có thể là cẩm nang gối đầu cho bất cứ người nào thật sự muốn đi vào con đường tu tập để chấm dứt khổ ngay trong thế giới rối ren của kiếp sống này.
Tôi giới thiệu sách với anh Tâm Cảnh _ Nguyễn Ngọc Cảnh (một Phật tử quy y Tam bảo và học Phật pháp với sự hướng dẫn của tôi). Khi biết anh Tâm Cảnh nhận ra giá trị sách này, tôi đề nghị dịch với tiêu chí “dịch để học”. Anh nhiệt tình nhận lời và chúng tôi cùng nhau hợp tác dịch tác phẩm suốt trong thời gian dịch Covid-19 từ năm 2020 đến 2021. Bản dịch hoàn tất và sửa xong tháng 03 năm 2021 _ Phật lịch 2565. Tuy cùng dịch chung nhưng cá nhân tôi chịu trách nhiệm về nội dung và Việt ngữ Phật học dùng trong bản dịch này.
Trong quá trình dịch, tôi đã tham khảo các bản Việt dịch Nikàya, nhất là dùng từ ngữ Phật học trong bản dịch Thắng pháp tập yếu luận của Ngài Trưởng lão Thích Minh Châu cho các chương Chánh niệm và Chánh định. Ngoài ra, tôi tham khảo về Tứ niệm xứ trong sách Pháp hành thiền tuệ của Ngài Trưởng lão Hộ Pháp, chùa Bửu Long.
Tôi không quên thành kính tri ân Ngài Trưởng lão Hộ Nhẫn, chùa Thiền Lâm, Huế và Ngài Trưởng lão Viên Minh, chùa Bửu Long. Hai vị thầy đã tiếp nhận và hướng dẫn tôi được tiếp cận và tu học theo những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật. Bản dịch này là pháp cúng dường đến hai Ngài, các vị thầy và các pháp hữu đã và đang cùng tôi tu học theo những lời dạy của Đức Phật.
Sau cùng, chúng tôi chân thành tri ân các Phật tử, thân quyến, bạn bè đã hỗ trợ tinh thần và vật chất để bản dịch này được xuất bản.
Chúng tôi hy vọng bản dịch này góp một phần tài liệu nhỏ cho các Phật tử Việt Nam đang có nguyện vọng tu học theo những lời dạy nguyên thủy của Đức Thế Tôn để chấm dứt khổ ngay trong kiếp sống này. Chúng tôi cũng mong rằng một ngày không xa những loại sách này được giới thiệu trong các trường Phật học ở Việt Nam.
Mùa Phật đản 2565_ năm 2021
Mindful Way Buddhist Meditation Society Tu viện Đạo Tâm
10164 Gramercy Pl
Riverside, CA 92503, USA Người dịch.

Sự khác nhau giữa giới luật và luật pháp, nhân quả và nghiệp báo

 


SỰ KHÁC NHAU GIỮA GIỚI LUẬT VÀ LUẬT PHÁP; NHÂN QUẢ VÀ NGHIỆP BÁO

Tâm Hạnh

Để trở thành một phật tử, bước đầu, tất cả chúng ta đều phát nguyện thọ trì Ba Quy-y và Năm Giới (Pali:Ratanataya, panca -sila) với một vị tỳ kheo thay mặt Tăng bảo.Tuần tự, người phật tử học tập về Bố thí, trì giới, Nhân Quả, Luân Hồi, Mười Nghiệp đạo, duyên khởi, bốn Thánh Đế, các Ba-la-mật.v.v… để làm nền tảng và hành trang cho sự tu tập. Giữa sự quy y Tam Bảo và sự chấp thuận gia nhập đoàn thể thế tục hay tôn giáo nào đó, giữa giới luật và luật pháp thế gian, giữa năm giới và mười nghiệp đạo, giữa định luật nhân quả và nghiệp báo, khác nhau như thế nào về nội dung, hình thức, sự vi phạm, sám hối, mục đích của nó là những điều mà người phật tử chúng ta cần hiểu rõ. Nếu không hiểu rõ sự khác nhau đó, chúng ta sẽ không thấy được sự khác nhau giữa hạnh phúc tinh thần của người Phật tử và hạnh phúc dung tục của thế tục; nhất là không thấy được mục đích tu học theo Phật giáo.Nếu không hiểu rõ được những giáo pháp căn bản này, tuy rằng chúng ta là những người Phật tử nhưng sẽ dễ dàng tu học lệnh hướng và tất nhiên sẽ đưa đến những kết quả ngoài Phật giáo. Đức Phật dạy: ” Hạt lúa mì được đặt đúng hướng sẽ làm thủng vào ngón tay. Nếu không được đặt đúng hướng, hạt lúa mì sẽ không làm thủng vào ngón tay.” ( kinh Tăng chi_phẩm Hạt lúa mì_T.Minh châu)
Có khi, chúng ta đã từng suy nghĩ hay nghe: “Đạo nào cũng tốt, cũng dạy làm lành bỏ dữ”. Nếu chỉ dừng ở chổ làm lành lánh dữ thì chỉ cần luật pháp của quốc gia, chẳng cần sự có mặt của đạo đức tôn giáo. Nếu chỉ cần làm điều thiện để được hưởng khoái lạc ở cõi trời, cõi người thì các tôn giáo khác cũng có, và giáo pháp do Đức Phật chúng ngộ và giảng dạy đã không xuất hiện ở đời. Đây là những điều mà người Phật tử chúng ta cần ghi nhận.
Sống giữa thế giới này, có biết bao hiện tượng tự nhiên mà chúng ta không thể giải đáp; biết bao sự lo sợ, đau khổ từ bản thân, xã hội hay thiên nhiên mà chúng ta không thể vượt qua; biết bao hạnh phúc, bình an mà chúng ta không thể giữ được. Để mưu cầu hạnh phúc bằng cách bảo vệ hay phát triển quyền lợi và địa vị của mình hay do những thế lực khác bắt buộc, chúng ta gia nhập vào những đoàn thể thế tục nào đó.Sự gia nhập những tôn giáo khác, ngoài những lý do phổ thông như trên, còn là từ sự sợ hãi trước thế lực của thiên nhiên, mục đích để cầu mong sự che chở; hay chấp nhận sự phán quyết của các Thần Linh, Thượng Đế theo tôn giáo ấy để an tâm lập mệnh.
Khác hẳn với hai trường hợp trên, người Phật tử bằng sự hiểu biết trí thức, tự nguyện quy-y Tam Bảo với ý nghĩa:
Quy-y Tam bảo: là trở về (gacchati) nương tựa (Saranà) nơi ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Lấy ba ngôi báu hay ba điều quý báu (Ratanataya) làm tôn chỉ, làm mục đích, làm kim chỉ nam cho nếp sống tinh thần của mình.
Mục đích đời sống của con người là hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không thể có được khi con người làm nô lệ cho vô minh, tà kiến chấp thủ, ái dục. Hạnh phúc không thể có khi con người còn nô lệ cho niềm tin mù quáng. “Tự buộc mình phải tin tưởng và chấp nhận một điều mình không hiểu gì hết, là một thái độ chính trị, không phải thái độ tâm linh hay trí thức.”_Đức Phật dạy những gì_W.R_N.S Trí hải dịch_(To force oneself to believe and to accept a thing without understanding is political, and not spiritual or intellectual._What the Buddha taught_Walpola Rahula)
“Khát ái không chỉ là ham muốn, bị trói buộc vào khoái lạc giác quan, tài sản, quyền lực, mà còn là ham muốn, bị trói buộc vào những tư tưởng, lý tưởng, quan điểm, lý thuyết, khái niệm và niềm tin (dhammatanhà, pháp ái). Theo sự phân tích của Phật, tất cả tranh chấp trên đời, từ gây gỗ trong gia đình cho đến đại chiến giữa các quốc gia, đều có gốc rễ ở khát ái này. Theo quan điểm ấy, mọi vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội đều có cội rễ là lòng tham vị kỷ. Những chính khách muốn dàn xếp những tranh chấp quốc tế mà chỉ bàn chiến tranh và hòa bình trong lãnh vực chính trị, kinh tế là chỉ chạm cái vỏ ngoài, không bao giờ động đến cội gốc đích thực của vấn đề. Như Phật đã dạy tôn giả Ratthapàla: "Thế gian thiếu thốn, khát khao và nô lệ cho dục vọng (tanhàdàso)." (Đức Phật dạy những gì_Walpola Rahula_N.S Trí hải dịch)
Muốn thoát khỏi những trói buộc đó, con người cần phải trở về sống sáng suốt, định tỉnh, trong lành, nghĩa là trở về nương tựa nơi Phật (sáng suốt, tỉnh thức), Pháp (định tỉnh, chân thật), Tăng (trong lành, hòa hợp), vì đó là ba điều kiện quý báu và đầy đủ hơn cả cho hạnh phúc đích thực của con người.
Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú 160: “Ta là nơi nương nhờ của ta, không ai khác là nơi nương nhờ của ta được, khi ta đã thuần tịnh thì đó là nơi nương nhờ hy hữu.” Như vậy, đức Phật đã khẳng định quy-y Tam Bảo chính là tự quy-y vậy.
Quy-y Phật có hai phương diện:
1. Quy y Bậc đã hoàn toàn giác ngộ, nghĩa là nhận Đức Phật là bậc Thầy hướng đạo.
2. Quy y đức tính giác ngộ nơi chính mình, nghĩa là luôn sống sáng suốt, tỉnh thức trong hành động, lời nói và ý nghĩ, không mê muội buông lung theo vô minh, tà kiến chấp thủ, và ái dục.
Quy-y Pháp có hai phương diện:
1. Quy-y giáo pháp đức Phật. Giáo pháp được đức Phật khéo thuyết giảng. Pháp ấy có đặc tính: thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, hãy trở lại mà thấy, hướng thượng, bậc trí tự mình chứng ngộ.( Trung bộ kinh)
2. Quy-y thực tại chân lý ở chính mình.
Quy-y Tăng có hai phương diện:
1. Quy-y chúng tăng là noi theo gương các bậc xuất gia có đời sống theo đoàn thể thanh tịnh và hòa hợp, thể hiện bốn đức tính: thiện hạnh, trực hạnh, ứng lý hạnh, và chánh hạnh đang hành trì theo chánh pháp.
2. Quy-y những đức tính trong lành quý báu nơi chính mình như chúng tăng đã và đang đạt được.
Như vậy, quy-y Tam Bảo không phải là nương nhờ vào sự ban ơn giáng phúc hay cứu rỗi của Phật, Pháp, và Tăng. Quy-y Tam Bảo không phải là quy-y với một vị thầy hay với một ngôi chùa nào cả. Một vị thầy xứng đáng, một ngôi chùa quy củ có thể sách tấn chúng ta luôn tự quy-y Tam Bảo. Một vị thầy có thể sai, một ngôi chùa có thể sụp đổ, còn quy-y Tam Bảo là sự hành trì từng giây từng phút không thể nào thiếu được.Chứng điệp quy-y chỉ có giá trị tượng trưng, không thể thay thế được chính tự quy-y, không thể để thờ hay để đốt theo khi chết hầu Diêm Vương xá tội. Không phải sau khi được làm lễ truyền thọ Tam Quy, Ngũ Giới là đã trở thành người Phật tử. Chỉ khi nào Tam Quy, Ngũ Giới được hành trì nghiêm chỉnh thì mới xứng đáng là người Phật tử. Quy-y xong mà vẫn sống theo mê tín, tin theo tà giáo, sống buông lung, phóng dật, thất niệm, hành động nói năng bất chính thì gọi là mất Tam Quy.
Nếu có chuyên cần thọ trì quy giới, nhưng có khi được, khi mất thì gọi là Tam Quy nhơ đục, phải thường tự ăn năn sám hối, thọ trì quy giới lại. Theo truyền thống Phật giáo, mỗi nữa tháng Phật tử phải đến chùa để sám hối, thọ trì quy giới lại và nghe pháp để tự nhắc mình hành trì quy giới nghiêm túc hơn. Nếu không có chùa thì người phật tử tự sám hối và đọc quy giới trước bàn thờ Phật trong nhà. Người căn cơ cao có thể luôn tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác thì khi thất niệm, chỉ cần tỉnh thức trở lại là đầy đủ Tam Quy.
Tóm lại, Tam Quy là luôn luôn tự mình tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác, để giữ than, khẩu, ý của mình sáng suốt (quy-y Phật), định tỉnh (quy-y Pháp), trong lành (quy-y Tăng).
Một người đã vững bước trong sáng suốt, tỉnh giác, định tỉnh, chánh niệm và trong lành tinh tấn, người ấy được gọi là “Tịnh tín bất động nơi Tam Bảo”, đã thấy đó là lẽ sống đích thực của mình, đã nhận ra nguồn chân hạnh phúc, Đức Phật gọi đó là người đã nhập dòng thánh, đã thấy rõ Tam Bảo nơi chính mình. Đó là ý nghĩa đích thực của quy-y.
Luật pháp thế gian được xây dựng theo luân lý, đạo đức, truyền thống, phong tục tập quán và quan điểm chính trị của chính quyền đại diện cho nhân dân ở đất nước đó. Hay nói cách khác, luật pháp nhằm khống chế, quản lý những đối tượng phản động, nguy hiểm, bất chính theo nhận thức, chủ trương, khái niệm của nhân dân và chính quyền ở địa phương đó. Như vậy, luật pháp thường mang tính cách địa phương, đúng hay sai, tốt hay xấu theo quan điểm chính trị, chủ quan, cục bộ, hòan cảnh, chỉ có giá trị ở nước này, nhưng vô giá trị ở nước khác. Có khi, ngay trong một nước, tỉnh này, làng này, luật lệ cũng khác với tỉnh khác, làng khác. Hay nói cách khác, luật pháp được xây dựng trên quyền lợi của số đông, nhất là số đông có quyền lực chính trị chi phối xã hội đó và bị giới hạn bởi không gian, thời gian, đối tượng và trường hợp. Do tiêu chí đó, luật pháp có khi rất công bằng với số người này, nhưng bất công với số người khác theo quan điểm xã hội. Mục đích của Luật pháp là đem lại sự cân bằng ổn định, đồng thời bảo vệ đời sống hạnh phúc của những người theo quan niệm của xã hội đó. Nếu ai làm ngược lại, vi phạm thì có chiếc còng và nhà tù hay cái chết dành cho họ. Trên lý thuyết, luật pháp bình đẳng với tất cả mọi người nhưng trên thực tế mọi người không bao giờ bình đẳng trước pháp luật.
Khác với luật pháp thế gian, Giới luật của Phật giáo, được xây dựng trên từ bi và trí tuệ hiểu biết về nhân quả, nghiệp báo nên không bị giới hạn hạn bởi không gian, thời gian, trường hợp và luôn bình đẳng với mọi đối tượng. Tuy rằng khi chế định giới luật, Đức Phật có dựa trên nền tảng xã hội, văn hóa đương thời nhưng mục đích chú trọng sự giáo dục để phát triển khả năng đạo đức tốt đẹp nhất của con người, đem lại hạnh phúc thật sự cho con người và từng bước đưa họ vào thánh đạo. Do đó, muốn hiểu giới luật của Phật giáo thì phải biết rõ về định luật nhân quả, nghiệp báo.( xin xem Câu xá luận_phẩm Nghiệp)
Nhân quả và nghiệp báo khác nhau. Có khi có nhân quả mà không có nghiệp báo. Định luật nhân quả là tự nhiên, tất yếu, không thể chấm dứt nó được nhưng nghiệp báo thì ta có thể chấm dứt, giải thoát nó được. Muốn hiểu rõ về nhân quả nghiệp báo, chúng ta cần phải biết về những kiến thức giáo pháp cơ bản sau đây:
Những định luật của vũ trụ: có những định luật, những quy luật vận hành vũ trụ, chúng tương quan mật thiết với nhau và chi phối toàn bộ đời sống con người cùng vạn hữu. Những định luật, quy luật này mâu thuẫn nhau, tương tác nhau đã sinh ra vô vàn hiện tượng khác nhau như hữu tình, vô tình, trời đất, vũ trụ v.v…
Những quy luật ấy được Đức Phật giới thiệu phổ quát bằng năm định luật (niyàma):
1.Thế giới vật lý vô cơ (utu-niyàma): quy luật vận hành trong thế giới tự nhiên, tạo ra những hiện tượng nắng mưa, ngày đêm, nóng lạnh, bốn mùa do ảnh hưởng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú đến sông biển ao hồ, tác động đến con người, cây cối, vạn vật.
Trong định luật thuộc vật lý vô cơ này cũng xảy ra theo tiến trình nhân quả nhưng không có nghiệp báo. Như do hiện tượng El Nĩno mà bão lụt động đất, hạn hán xảy ra khắp nơi. Nguyên nhân là do nạn phá rừng, khí thải công nghiệp mà nhiệt độ trái đất tăng lên, phá vỡ tầng ozon, môi trường sinh thái bị nhiễm độc… Gần hơn có những nhân quả rất cụ thể như trời nóng thì đổ mồ hôi, lạnh thì rét, mưa nhiều sinh lụt, không khi giãn nở tạo ra gió…
2.Thế giới sinh vật lý hữu cơ (bija-niyàma): quy luật tác động trong thế giới tế bào của những động vật và thực vật, có cả con người. Do những định luật này, những nhà khoa học đã tìm ra giống loại như AND, di truyền, gène… kể cả những công nghệ sinh học. Do quy luật này mà giống nào sinh giống ấy, hạt cam sinh cây cam, hạt lúa có từ cây lúa. Gène di truyền trong việc thụ thai hai trẻ sinh đôi giống nhau nhưng khác tính tình v.v…
Trong thế giới này, tiến trình nhân quả xảy ra rất đa dạng và phức tạp. Nền công nghệ sinh học muôn biến đổi gène động vật, thực vật là dựa vào quy luật này… do sự lai tạo, mướp đắng không đắng nữa mà lớn như quả bầu, các loại lúa chịu hạn, bắp cho nhiều hạt, một loài người thông minh hơn. Cả hai loại đinh luật này tương tác, ảnh hưởng qua lại nhau để xảy ra tiến trình nhân quả khác. Ví dụ: chết vì rét, vì đói, vì bị nhiễm độc, vì bội thực v.v… thế giới vật lý tác động lên thế giới sinh lý (cơ thể) nên xảy ra như vậy.
3.Pháp (Dhamma-niyama): quy luật chi phối vạn pháp như âm dương, ngũ hành, luật hấp dẫn, ly tâm, điện từ, phản ứng sinh lý hoá, luật bảo toàn năng lượng, trường sinh học, kể cả những hiện tượng siêu hình như lúc bồ tát giáng phàm, thành đạo, khi Đức Phật Niết Bàn.
Lãnh vực này rất bao la, khoa học cũng chưa tìm kiếm ra hết, có chăng chỉ mới là những bước khám phá ban đầu. Định luật này xảy ra trong tiến trình nhân quả trong pháp giới. Luật này dễ kiểm chứng như trong phản ứng hoá học. Cho chất này vào thì nước sôi lên, nhưng là chất khác thì nước đổi màu v.v… âm dương hút nhau, dương dương hay âm âm thì đẩy nhau (nam châm hút sắt), ngũ hành tương sinh, tương khắc v.v… đều là nhân quả. Tuy nhiên, trong pháp giới còn có những định luật nhân quả rất huyền nhiệm như khi Bồ tát đản sinh thì địa cầu chuyển động, người bị thôi miên, mộng du di chuyển trong thế giới 4 chiều.
4.Tâm (citta-niyama): định luật về tâm, tâm lý như ý niệm, ý tưởng, tưởng tượng, hồi ức, trí nhớ, tư tưởng, trực giác v.v… Những trạng thái tâm lý, những yếu tố nội tâm diễn tiến theo trình tự nhân quả tương quan đưa đến phán đoán, nhận thức, suy luận, chi phối sinh hoạt hữu thức hay vô thức của con người đều thuộc lĩnh vực của định luật này. Những hiện tượng thần giao cách cảm, biết quá khứ vị lai, thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm thông đều từ định luật này.
Nhân quả trong các định luật về nhân quả cũng không phải là nghiệp báo. Khoa tâm lý học phương Tây có cả một môn học chuyên sâu để nghiên cứu, đào xới mảnh đất bí hiểm này. Tất cả những cái gọi là ký ức, phán đoán, tưởng tượng, tình cảm, nhận thức v.v… đều nằm trong quy luật nhân quả. Chính giấc mộng, sinh hoạt vô thức, bệnh tâm thần, stress, họ cũng tìm ra quy luật và giải mã nó để tìm phương pháp chữa trị. Những hiện tượng như thuật thôi miên, thần giao cách cảm, truyền đạt tư tưởng, tìm ra mộ người thân, chữa bệnh bằng tư tưởng v.v… đều là nhân quả của tâm. Điều này, các tôn giáo Đông phương đã thực đi trước bằng các khả năng thiên nhỉ thông, thiên nhãn, tha tâm thông v.v… Có những ví dụ gần gủi và thực tế như:
a. Khi tâm định thì phát sinh hỷ lạc.
b. Khi các tâm sở thiện có mặt thì thân tâm thư thái nhẹ nhàng, an vui v.v…
c. Khi các tâm sở bất thiện có mặt thì thân tâm ta nặng nề, bất an, nóng nảy, trì trệ, bột chột, bất an v.v…
d. Khi thấy người thân qua đời thì buồn chảy nước mắt.
e. Thấy rắn thì sợ.
f. Trúng số thì vui.
g. Bị phỉ báng, nhục mạ thì buồn khổ
h. Nếu thường làm các việc ác thì thường thấy cảnh chiến tranh hay mộng dữ v.v… Tâm và pháp tương tác nhau để sinh ra các tâm lý chủ quan “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
5.Đinh luật về nghiệp (kamma-niyàma): định luật về nghiệp báo, nói đủ là nhân quả nghiệp báo. Khi nói đến nghiệp báo thì phải có tác nhân của nghiệp và kết quả của nghiệp.
Chính ở đây mới nói đến nghiệp báo, sự chi phối của nghiệp báo và thoát khỏi nghiệp báo. Ta có thể dẫn nhiều ví dụ: Ta làm một việc xấu ác bị người khinh ghét và bị tù tội.
Phân tích: làm việc xấu ác là nhân, bị người khinh ghét, bị tội tù là quả. Do biết lẽ nhân quả nên ông A nhẫn chịu sự đau buồn xảy ra mà tâm không hề oán trách, than van sầu muộn hay sinh tâm ác, hay hận thù với ai. Đây là trường hợp có nhân có quả nhưng không có nghiệp báo.
Ông B thì trái lại, cho nên cái quả khinh ghét hoặc tội tù ấy càng gia tăng, có thể dẫn đến những hành động hoặc ý nghĩ sai lầm khác nữa. Ông B bị nghiệp báo chi phối.
Qua ví dụ trên, ta biết rõ, quyết định về nhân hay về quả của nghiệp báo chính là tâm niệm, ý tưởng, ý chí (cetanà_tư tâm sở) là tâm sở chủ động các trạng thái tâm lý.
Trong 5 định luật trên, 4 định luật đầu là định luật tự nhiên, chúng xảy ra theo tiến trình nhân quả nhưng không theo nghiệp báo. Định luật thứ 5 này mới xảy ra theo nhân quả nghiệp báo. Những hành động và phản ứng tâm lý có ý thức, mang tính đạo đức, luân lý (thiện, bất thiện, bất động) mới tạo ra báo ứng của nghiệp. Đây là những quyết định, những chủ đích, những hành động có đầu tư ý chí của mỗi cá nhân. Tuy là nghiệp riêng biệt (biệt nghiệp) của cá nhân, nhưng nó có ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội và nhân loại (cộng nghiệp).
Theo Abhidhamma của Phật giáo, sự hoạt động của tâm tùy thuộc hai điều kiện là giác quan ( căn) và đối tượng của chúng ( trần) mà tạo ra sự nhận thức ( thức). Trong khi đó, sự duy trì, hoạt động, và phát triển sắc thân của chúng ta dựa vào bốn điều kiện là nghiệp, tâm, thời tiết ( môi trường), và thức ăn. Trong đó, nghiệp chỉ là một trong bốn. Chúng ta buồn bực, giận hờn thì thân thể sẽ mệt mỏi, suy nhược. Ra ngoài trời lạnh mà không giữ ấm thì chúng ta sẽ bị bệnh. Chúng ta ăn uống không điều độ, thực phẩm không tốt sẽ bị bệnh.Trong những trường hợp này, không liên quan gì đến nghiệp cả mà chúng chỉ là sự tương quan nhân quả.
Như vậy, chúng ta phải biêt rõ đâu là nhân quả khách quan, đâu là nghiệp báo chủ quan. Cả 4 định luật đầu đều xảy ra theo tiến trình nhân quả. Phạm vi của chúng rất rộng lớn. Nếu chúng ta không thấu triệt đễ sinh ra ngộ nhận, cái gì cũng đổ thừa cho nghiệp thì oan cho ba đời chư Phật.
Dù đức Phật có ra đời hay không thì 4 định luật trên đều chi phối vạn vật. Đức Phật không hề dạy tu tập để chấm dứt các định luật ấy. Giáo pháp và giới luật do Đức Phật dạy để giúp ta không tạo nghiệp ác và giải thoát nghiệp báo ở định luật thứ năm. Nhưng ta cần phải thấu rõ các định luật ấy để không bị đau khổ, sợ hãi vì không hiểu biết chúng.
Nếu là nhân quả tự nhiên thì nó máy móc, khách quan, lạnh lùng theo quy luật của vũ trụ, nhưng nhân quả nghiệp báo thì còn do tâm quyết định. Chính ở nơi tâm mới nói đến tâm nhân và tâm quả. Còn có cả triệu định luật khác không được gọi là nhân mà chỉ là duyên, thuận hay nghịch tác động, ảnh hưởng lên nhân ấy. (Tham khảo chương Nghiệp báo_Đức Phật và Phật Pháp_Narada_Phạm kim khánh dịch)
Nghiệp ( kamma_pali) là gì ? Nghiệp là hành động bằng thân, miệng và ý thông qua sự tác động của ý chí (cetanà). Hành động với sự cố ý như thế là tạo ra nghiệp; khi thành tựu nghiệp đạo tất nhiên sẽ đưa đến quả báo tương xứng. Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo! Như Lai nói tư chính là nghiệp” (Cetan ‘aham bhikkhave kammam vadàmi_Anguttara Nìkàya). Tư chỉ cho ý chí của các hành động thiện ác thuộc dục giới và tâm bất động thuộc sắc giới và vô sắc giới.
Khi ý chí đã đạt được mục đích mà nó mong muốn thì nghiệp đạo căn bản được thành tựu. Nghiệp đạo là con đường đưa nghiệp nhân đến nghiệp quả. Quá trình thành tựu nghiệp đạo dù thuộc thân hay ngữ cũng phải đi qua 3 giai đoạn. Một là gia hành của nghiệp đạo là giai đoạn chuẩn bị cho hành động. Hai là căn bản nghiệp đạo lúc hành vi đạt được mục đích mong muốn. Ba là hậu khởi của nghiệp đạo, sự tiếp diễn của hành động sau khi căn bản nghiệp đạo đã thành tựu. (tham khảo Yết ma yếu chỉ _ trích Câu xá_ của HT. Trí Thủ)
Nghiệp đạo có nhiều loại nhưng được biểu hiện bằng ba loại là nghiệp thân, miệng và ý. Về mặt tính chất thì chia làm 3 là thiện nghiệp, ác nghiệp và nghiệp bất động (thiền định). Mười nghiệp thiện đưa đến hạnh phúc ở cõi người, cõi trời thuộc dục giới. Mười nghiệp ác đưa đến đau khổ ở cõi người, trời và tương lai là địa ngục, ngạ quỹ, và súc sinh. Nghiệp bất động đưa đến sắc giới và vô sắc giới.
1.Nghiệp ác (akusala kamma) có mười:
a. Về thân có 3 là sát sinh, trộm cắp, tà dâm.
b. Về miệng có 4 là nói dối, nói chia rẽ, nói thô ác, nói phù phiếm thêm thắt.
c. Về ý có 3 là tham, sân, si.
2.Nghiệp thiện (Kusala kamma) có mười: Ngược lại mười nghiệp ác trên.
3.Nghiệp bất động (ànanja kamma) là các tầng định thuộc sắc và vô sắc giới do Tư tâm sở làm phát sinh các thiền chi.
Như vậy, ở dục giới, hành động thân, miệng và ý của chúng ta thường xuyên tương ứng với mười nghiệp ác do vô minh, tà kiến chấp thủ và ái dục làm nhân duyên. Khi nào chúng ta còn vô minh, tà kiến chấp thủ, ái dục thì vẫn còn hành động theo mười nghiệp ác. Do đó, tuy chúng ta có đặt ra luật pháp, đạo đức, luân lý để ngăn chận các nghiệp ác nhưng chúng vẫn bị hạn chế bởi không gian và thời gian, bởi những tiêu chuẩn thiện ác, đúng sai, tốt xấu dựa trên khái niệm chủ quan mà đặt ra, như đã nêu ở trên.
Khác nhau giữa nghiệp đạo và giới luật: Một người hành động theo mười nghiệp ác, xét ra họ không thể sám hối mà hết. Họ cũng không bị Thượng đế hay thần linh nào trừng phạt cả mà chính luật nhân quả với sự tác động của nghiệp đạo làm cho họ phải nhận lấy kết quả tương xứng. Hay nói cách khác, nghiệp báo không phải là số mệnh hay tiền định hay do Thượng đế hay thần linh nào định đoạt một cách bất khả kháng mà chính hành động thiện hay ác của chúng ta gây phản ứng lành hay dữ đưa đến hạnh phúc hay đau khổ. Tu là chuyển nghiệp, có nghĩa là chúng ta có đủ năng lực chuyển cái nghiệp của chúng ta theo ý muốn nhưng tùy theo khả năng hiểu biết và tu học theo Phật pháp của chính ta. Như vậy, muốn tiêu diệt hay vô hiệu hoá nghiệp đạo đã làm thì phải bằng cách phát tâm rộng lớn, hướng đến giác ngộ ( phát tâm Bồ đề) làm nhiều phước nghiệp khác như giữ giới, bố thí, niệm Phật, hay hành thiền…tu các pháp ba-la-mật để hóa giải. Ví dụ ta nấu một nồi canh lỡ cho muối nhiều, bị mặn, thi phải xử lý bằng cách cho thêm nước, bột nêm, đường vào thì vị mặn bị giảm đi và có thể ăn được. Cho một hạt muối vào một ly nước nhỏ thì không thể uống được vì mặn nhưng cũng lượng muối ấy, nếu cho vào một chậu nước lớn thì nó sẽ bị vô hiệu hóa.
Bước đầu, để ngăn chận các hành vi của thân, miệng, ý không tạo các nghiệp đạo ác, người Phật tử phải thọ giới. Khi đã thọ giới, chúng ta nhờ năng lực hộ trì, ngăn chận của giới làm cho chúng ta không làm các nghiệp ác cũng có nghĩa là làm các nghiệp thiện.
Giới luật là gì? Giới ( Pali_sila: thường,tự nhiên, hộ trì,bảo vệ) luật (Pali_vinaya: điều phục_rèn luyện). Ở đây, giới có nghĩa là giữ cho đời sống theo bình thường tự nhiên như không làm ác; hộ trì, bảo vệ không cho làm ác. Giới gồm có những điều khỏan ( precept) cần phải học (Pali_sikkhà pada: học xứ: điều học) như học xứ không sát sinh, không trộm cắp… bằng tự nguyện. ( chúng ta không nói “ giới không sát sinh” mà nói là “ điều học không sát sinh”. Giới_sila_ trong trường hợp này chỉ cho giới (pháp, thể, hành, tướng) của phật tử tại gia hay của người xuất gia_giới cụ túc_ mà không phải chỉ cho từng điều học.Ví dụ: Patimokkha ( Ba-la-đề-mộc-xoa) được dịch là Bảo giải thóat hay Biệt biệt giải thóat ( pati: bảo vệ) (mokkha m. giải thoát, thả ra, thoát khỏi, được tự do như giải y, giải hạ…). Biệt biệt giải thóat không có nghĩa là giữ từng giới nào như không sát sinh thì giải thóat giới ấy mà có nghĩa là thọ giới ở cấp độ nào thì cởi bỏ, chấm dứt sự trói buộc của phiền não theo cấp độ ấy _Xem Câu xá về thể và tướng của luật nghi_phẩm Nghiệp_.) Giới không hề có ý nghĩa bị bắt buộc phải thọ, phải giữ như luật pháp, nội quy của thế gian hay giáo điều (dogma) như ở các tôn giáo khác. Ngoài ý nghĩa đạo đức xã hội ra, mục đích giới luật của Phật giáo là chú trọng đến mặt giáo dục con người đi vào thánh đạo giác ngộ giải thóat nên còn gọi là luật nghi (Pali_Samvara: bảo vệ phòng hộ).
Khác với luật pháp hay giáo điều bị hạn chế bởi không gian, thời gian, đối tượng, trường hợp, luật nghi bao trùm cả năm chi phần: đối với bất cứ hữu tình (động vật); đối với bất cứ thời gian nào; đối với bất cứ nơi đâu; đối với bất cứ trường hợp nào; đối với bất cứ phương tiện nào để làm ác (xem Câu xá 15_ Đại chính 29, tr78b). Chính luật nghi là cơ sở phòng hộ người có thọ giới được sống an ổn và đi vững vàng trong thánh đạo, nền tảng cho chánh niệm, tỉnh giác để đi vào định và tuệ tiến đến giác ngộ giải thoát. Giới luật còn có chức năng rất quan trọng là bảo trì sự tồn tại của Phật pháp “Giới luật là nền tảng của Phật Pháp” (Pali: Vinayo sàsana mùlam) ( Hán tạng: Tỳ ni giả, Phật pháp chi thọ mạng)
Một vấn đề được đặt ra ở đây là sự khác nhau giữa giới và thiện nghiệp là gì? Ví dụ: so sánh thiện nghiệp không sát sinh và giới không sát sinh, chúng có giá trị khác nhau thế nào?
Theo ba loại nghiệp đã nêu ở trên, thiện nghiệp và ác nghiệp chỉ có trong Dục giới, tạo nên Dục giới (tam giới duy tâm). Như vậy, nếu chúng ta giữ mười thiện nghiệp một cách hòan hảo đi nữa thì kết quả vẫn chỉ là sinh trong cõi trời hay cõi người, không phải là mục đích tối hậu của Phật giáo. Hay nói cách khác là mười thiện nghiệp là nghiệp đạo,vẫn trong vòng luân hồi ba cõi.Một người không phải là Phật tử , họ vẫn có thể sống theo mười thiện nghiệp và được hạnh phúc ở cõi trời hay cõi người.Nhưng nếu họ không thọ ba quy y và năm giới thì họ không thể nào là phật tử để đi vào thánh đạo đưa đến giác ngộ giải thóat khỏi ba cõi.Thập thiện chỉ là thiện nghiệp nhưng năm giới là phước đưa đến giải thóat khỏi ba cõi.( Thí giới tu tam loại, các tùy kỳ sở ưng,thọ phước nghiệp sự danh, sai biệt như nghiệp đạo_xem Câu xá_ phẩm nghiệp). Nhờ năng lực bảo vệ của năm giới mà người Phật tử không tạo mười nghiệp ác, không đi vào địa ngục, ngạ quỹ và súc sinh. Nếu đi vào ba đường ấy thì thật khó có cơ hội gặp, hiểu, hay tu học Phật pháp. Ba quy y là định hướng như có kim chỉ nam, năm giới như chiếc bè đưa qua bể khổ luân hồi. Khi cùng nhau ngồi chung trên một chiếc bè giới, có kim chỉ nam Tam quy định hướng thì mọi người sẽ được qua bờ bên kia.Ba quy y và năm giới chính là chi phần của bậc dự lưu hướng đang đi vào thánh đạo, chuyển hóa nghiệp ba cõi, đưa đến giải thóat. Do đó, mười thiện nghiệp thì không cần người truyền nhưng Tam quy và ngũ giới thì không được tự thọ mà phải có thầy truyền. Mục đích năm giới là bảo vệ thân, miệng chúng ta không tạo mười nghiệp ác trên đạo lộ dự lưu hướng, cho nên mười thiện nghiệp không phải là cấp độ tu tập cao hơn năm giới. Như vậy, nếu sau khi thọ tam quy, ngũ giới rồi lại thọ mười thiện nghiệp thì có khác gì đang đi vào thánh đạo giải thóat nhưng lại bước sang nẻo luân hồi. Trong tất cả thư tịch về luật tạng Phật giáo ( kể cả luật của Đại thừa) không hề có “Giới thập thiện” và cũng không hề có giới đàn hay nghi thức truyền thọ thập thiện giới.Bởi vì mười thiện nghiệp là nghiệp đạo chứ không phải là luật nghi hay thánh đạo.( Trong kinh Thập thiện nghiệp đạo có giới thiệu về mười thiện nghiệp nhưng không hề nói đến thọ giới thập thiện)
Trong quá khứ, vì hòan cảnh nào đó, vì nhu cầu nào đó, chúng ta có thể cho truyền thọ “Thập thiện giới” nhưng chúng ta phải biết đó là phi pháp phi tỳ ny. Đây là điều mà những ai có trách nhiệm với sự tồn vong của Phật pháp, cần phải suy nghĩ.
Có thọ giới, đang còn là phàm nhân, tất nhiên có lúc chúng ta phạm giới. Phạm giới không có nghĩa là gây tội như một số quan niệm của thế gian hay của các tôn giáo khác.Phạm giới có nghĩa là chính ta đã vi phạm vào những điều mà chính ta đối trước Tam bảo, giới sư mà ta xin giới và hứa sẽ giữ giới. Phạm giới hay phá giới còn có nghĩa là chúng ta đã và đang phá vỡ bức thành giới bảo vệ, làm rách chiếc áo giáp giới đang che chở chúng ta. Như vậy, khi phạm giới, người phật tử cần phải sám hối sự sai lầm của mình và xin giới để thanh tịnh trở lại. Sám hối theo quan niệm của Phật giáo không có nghĩa là chịu trừng phạt, chuộc tội, chịu tội, xưng tội như luật pháp thế gian hay ở các tôn giáo khác.Theo Phật giáo, Sám hối có nghĩa là tự nhận lấy trách nhiệm về những lỗi lầm mà mình đã gây ra và xây dựng lại bức thành giới bảo vệ, phục hồi lại chiếc áo giáp giới che chở chúng ta trên con đường tu tập mà chúng ta đã làm cho rạn nứt, hư hỏng.
Một người không phải là Phật tử , không thọ giới, khi họ gây ra nghiệp đạo ác như sát sinh thì họ sẽ chịu quả báo tương xứng nhưng họ không có phạm giới. Một người Phật tử khi sát sinh, vừa tạo một nghiệp đạo ác, vừa phạm giới sát sinh. Nhìn qua, người Phật tử bị thiệt thòi.Như vậy, chúng ta thọ giới để làm gì?
Nhưng như đã nói ở trên, phạm giới thì có thể sám hối được và khi sám hối đúng pháp thì giới sẽ phục hồi. Đồng thời, người Phật tử nhờ năng lực hộ trì của giới nên không hành động các nghiệp ác, dù có muốn làm, đồng thời nhờ sự hộ trì của giới nên dễ dàng thực hành các phước nghiệp (Punna) như bố thí, hành thiền, phục vụ v.v… để hoá giải các nghiệp đạo ác đã có.
Một người không thọ giới, họ chỉ không làm điều ác khi bị luật pháp ngăn cấm trong không gian hay thời gian nào đó. Nhưng họ sẳn sàng làm ác gây đau khổ cho mình và người khác khi có cơ hội thuận tiện.Những hành động ác của họ bị lôi cuốn theo tiếng gọi của vô minh, tà kiến chấp thủ và ái dục vì không có sự bảo vệ của giới. Và như thế, họ sẽ nhận lấy những quả báo của nghiệp ác đã làm, đồng thời tiếp tục tạo thêm các nghiệp đạo ác khác để tiếp tục chìm đắm trong bể khổ.
Luật pháp được xây dựng trên quyền lợi của số đông hay quyền lực của chính quyền nên người ta chỉ tuân thủ do tác động ngăn chận bên ngoài. Giới luật của Phật giáo được xây dựng trên từ bi, luôn đặt mình vào hòan cảnh của người khác để không làm điều ác có hại cho người; bằng trí tuệ là hiểu rõ nhân quả, nghiệp báo nên không làm điều ác chứ không cần đến sự khống chế từ bên ngoài.Mục đích của Giới luật Phật giáo là giáo dục con người tự mình trở thành hoàn thiện trong ý nghĩa nhân bản của nó.
Là Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trí và giá trị, mục đích của pháp và luật do đức Phật dạy và những quy định về luật pháp của xã hội hay những giáo điều của các tôn giáo khác. Khi đã hiểu đúng giáo pháp bằng trí tuệ, có chánh kiến, người phật tử chúng ta mới có thể đi đúng trên chánh đạo với đời sống tự tại, an lạc trong hiện tại và tương lai mà không bị lệ thuộc hay mâu thuẫn với những sinh hoạt giữa chúng ta và xã hội .
Tâm hạnh
Tài liệu tham khảo:
_ _The Buddha and his teaching_Narada_
_ Đức Phật và Phật pháp_Narada_ Phạm kim khánh dịch
_Đức Phật dạy những gì Walpola rahula_Ns.Trí hải dịch
_What the Buđha taught_Walpola rahula
_Câu xá luận_ Đại chính 29.N.1559
_Trung bộ kinh_HT Minh Châu dịch
_Tăng chi bộ _ Ht Minh Châu dịch
_Yết ma yết chỉ_HT Trí Thủ
_ Tam quy ngũ giới_ HT Viên Minh
_Sơ thảo Giáo án phật học_ chùa Huyền không
_ Thập thiện nghiệp đạo kinh_ Đại chính_kinh tập bộ.N.600
_Thắng pháp tập yếu luận_ HT Minh Châu dịch