Thứ Năm, 28 tháng 4, 2022

7. Kinh nghiệm Tuệ Quán (Phần: Cẩm nang về kinh nghiệm Tuệ Quán - Ngài Kavi) *****

 


Kinh nghiệm Tuệ Quán 

Cẩm nang về kinh nghiệm Tuệ Quán - Ngài Kavi

Muốn giải thoát sanh tử, hành giả nên trở về quan sát nội thân, cái mà trước đây là nguồn khổ cho tấm thân sanh tử hiện tại. Nội thân tức 6 Căn, là đề mục quan sát cho tất cả hành giả. Qua đó hành giả mới thấy được rõ ràng bản chất và hoạt động của Danh Sắc. Trong 6 Căn thì thân căn được xem là rõ ràng, dễ quan sát hơn cả. Thân Căn ở đây là các oai nghi lớn nhỏ, những cảm giác, cảm xúc được phát hiện trên toàn thân. Qua thân căn, ở đây giả định là hơi thở, hành giả thấy rõ hơi thở là Sắc, điểm chạm của hơi thở cũng là Sắc và tâm thân thức là Danh. Sự gặp gỡ giữa ba món Căn-Cảnh-Thức này được gọi là Xúc. Hành giả thấy rõ ràng Xúc là Duyên Khơi của Thọ. Chánh Niệm của hành giả phải đủ mạnh và bén để Thọ không là Duyên Khởi cho Ái và Thủ, không để mình rơi vào vọng tưởng tức chỉ biết cảnh trần qua Sanna (tưởng) thay vì Panna (sự hiểu biết của trí tuệ, kiến tánh), biết cảnh Tục Đế thay vì Chân Đế. Xin nhắc lại mọi sự phải kết thúc ở Vedana (thọ).

Như vậy ở đây ta có một kiểu Duyên Khởi mới là Thọ Duyên Trí (Vedana paccaya panna) thay vì Thọ duyên Ái tức Thọ duyên cho Ái Tưởng (Vedana paccaya sanna). Khi ta biết cảnh trần bằng tâm tham ái thì lúc đó ta chỉ biết qua Tưởng và qua tướng Chế Định (pannatti). Khi ta biết cảnh trần bằng trí thì ta biết chúng qua khía cạnh Chân Đế (paramattha). Lìa Tưởng để biết cảnh trần bằng Trí, Thọ của hành giả lúc này không còn là Duyên Khởi cho Ái và đây là cơ hội tốt nhất để hành giả thấy được tánh sanh duyệt của Danh Sắc, giai đoạn mà người ta thích gọi là Sanh Diệt Tuệ (udayabbayanana). Ở đây chỉ nói ngắn gọn là trí quán tánh sanh diệt qua thân căn (hoặc các căn khác) được kéo dài thì sẽ dẫn đến Hành Xả Tuệ (Sankharupekkhanana). Người hữu duyên thì đây chính là cửa ngõ để chứng đạo vì 4 sat-na Chuẩn Bị, Cận Hành, Thuận Thứ, Chuyển Tộc diễn ra rất nhanh và chúng làm nền tảng cho tâm Chuyển Tộc thấy ra Níp Bàn. Sát-na này là sát-na cuối cùng của một phàm phu.

Thọ duyên Ái Tưởng  ---> Biết qua Chế Định

Thọ duyên Trí ---> Biết qua Chân Đế.


BÀI PHÁP VỀ KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Tất cả phàm phu đều đi tìm hạnh phúc bằng cách kiếm tìm và nắm giữ cái gì đó. Đó là động thái của Vô Minh. Vì ngay trong việc kiếm tìm và nắm giữ ta chỉ đầu tư vô cái khổ. Muốn thoát khổ thì phải buôn ra chớ không phải kéo vào. Người hiểu được sự thật về thế giới thì không còn muốn nắm giữ bất cứ thứ gì nửa dầu người hay vật. Do Vô Minh là sự không hiểu biết về bản chất cuộc đời nên người ta mới thích cái này cái nọ, thích toàn những thứ không đáng để thích. Đó là thám ái. Vô Minh và tham ái kết hợp nhau sẽ tạo ra tái sanh tức sự có mặt trên đời này trong một hình thức nào đó. Mà đã có mặt thì dứt khoát phải có khổ, mỗi cá nhân khổ theo một cách. Khi hiểu rõ bản chất của đời sống là gì thì ta không còn thích nửa. Chính Đức Phật sau khi thành đạo đã nhìn lại những gì đã qua trong suốt dòng luân hồi và ngài đã gọi tham ái là người thợ đã dựng lên ngôi nhà tái sanh mà chính ngài đã một thời sống đau khổ trong đó. Các vị phải hiểu rằng toàn bộ thế giới này chỉ nằm trọn trong ba thứ Tâm, Tâm Sở và Sắc Pháp. Các cảnh giới hiện hữu của muôn loài chúng sanh có hai cách hiểu nên cũng có hai tên gọi. Hiểu trên khía cạnh Chế Định hay Tục Đế thì ta gọi đây là cảnh giới hiện hữu hay thế giới không gian (okasaloka). Khi được phân tích qua ba khía cạnh Chân Đế như đã nói (Tâm, Tâm Sở và Sắc Pháp) thì tất cả thế giới vũ trụ nói chung được gọi là thế giới hữu vi hay thế giới pháp hành (sankharaloka). Do không hiểu như vậy (Vô Minh) nên ta mới đam mê (tham ái) trong ba pháp Chân Đế hữu vi từ góc nhìn Tục Đế. Công việc mà người câu giải thoát phải làm là quán chiếu Danh Sắc để thấy mọi thứ chỉ là Tâm, Tâm Sở và Sắc Pháp để không tiếp tục đam mê trong chúng, không tiếp tục tái sanh trong các cảnh giới hữu vi nữa. Có chuyện này ai cũng biết mà ít người nhớ, đó là khi hiểu biết quá rõ về một thứ gì đó  thì người ta khó mà đam mê điên cuồng vì nó. Trong đạo hay ngoài đời đều thế cả. Pháp môn Vipassana day ta đừng tiếp tục là trẻ con để đam mê những món đồ chơi rẻ tiền, đừng tiếp tục làm người mất trí để nhìn cuộc đời này theo cách mà những người tỉnh trí không thể chấp nhận. 

Nội dung cốt lõi của kinh Chuyển Pháp Luân theo nhận thức của mỗi người thì có thể có cả chục cách nói. Nhưng đối với cá nhân tôi thì điểm quan trọng nhất của kinh Chuyển Pháp Luân là nằm ở mấy câu này: Bóng tối diệt thì ánh sáng sanh, Vô Minh diệt thì Tuệ minh sanh, Do có bóng tối, do có Vô Minh nên ta không thấy được sự thật. Thấy được sự thật rồi thì ta được giải thoát. Vậy sự thật đó là gì?

     Đừng tìm chi cái thương, đừng tìm chi cái ghét.

     Thương phải xa là khổ, Ghét phải gần là khổ.

     Nói chung, Muốn không được là khổ, dầu muốn tránh hay muốn được.

Trong chánh kinh Chuyển Pháp Luân có nói đến nhiều thứ khổ nhưng tôi đặc biệt tâm đắc với ba cái khổ này vì chúng bao trùm tất cả nổi khổ trên đời.

Không biết rõ thế giới này chỉ gồm ba pháp Chân Đế hữu vi rồi đem lòng yêu mê chúng, xem chúng là ta, của ta, đó được gọi là Thân Kiến.

Chứng đạo là gì? Là thấy rằng thân ta và vô lượng vũ trụ chỉ là ba pháp hữu vi dựa trên luật nhân quả mà sanh diệt, đó là sự liễu tri Khổ Đế.

Thấy rằng sự đam mê trong ba pháp Tục Đế đó là nguồn cội cho ba pháp Tục Đế hữu vi về sau thì đó chính là sự liễu tri Tập Đế.

Thấy rằng sự vắng mặt của các đam mê chính là Níp Bàn thì đây chính là sự liễu tri Diệt Đế.

Và thấy rằng Bát Chánh Đạo là con đường dẫn đến Níp Bàn, đó chính là sự liễu tri Đạo Đế.

Bốn sự liễu tri này được gọi là pháp nhãn, là Tuệ Minh, là ánh sáng. Khi ánh sáng này xuất hiện lần đầu tiên, cái thấy của ta về Tứ Đế vẫn còn có chổ hạn chế nên phiền não cũng chỉ được loại bỏ một phần. Lần xuất hiện đầu tiên này của pháp nhãn được gọi là Sơ Đạo. Lần xuất hiện thứ hai của pháp nhãn sẽ giúp ta hiểu rõ hơn nữa về Tứ Đế, làm giảm nhẹ dục ái và sân, được gọi là trình độ Nhị đạo. Cũng bốn nhận thức này nhưng xuất hiện lần thứ ba để ta xác định được Tứ Đế rõ ràng hơn lần hai và chính sự rỏ ràng này giúp ta dứt hẳn năm hạ phần Kiết Sử (Thân Kiến, Hoài Nghi, Giới Cấm Thủ, Dục Ái, Sân). Pháp nhãn xuất hiện lần thứ tư, không một điểm nào trong Tứ Đế còn được che khuất, tất cả phiền não đều được đoạn tận.












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét