(Trích Kinh Sa-môn quả)
Như
Lai xuất hiện là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Như
Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí thế giới này với thiên giới, ma
giới, phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên Nhơn, lại
tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
Ðời sống
gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia
phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống
theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy
ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình". Một thời
gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ hay tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ
hay bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, và xuất gia từ bỏ gia
đình, sống không gia đình.
Khi đã
xuất gia như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy
đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học
tập trong giới học, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Sanh hoạt trong sạch giới
hạnh cụ túc, thủ hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác, và biết tri túc.
Hạnh
cụ túc
Thế
nào là Tỷ-kheo giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỷ-kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa sát
sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến tất cả
hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong
giới luật. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy
những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm
cướp, như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Tỷ-kheo
từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật,
chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại lời hứa đối với đời.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Vị ấy
từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ
kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói
với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy Tỷ-kheo ấy sống
hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp,
thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Vị ấy
từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác. Vị ấy nói những lời nói không lỗi
lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người. Như
vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Vị ấy
từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời
chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về chánh pháp, nói những lời
về luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch
lạc hệ thống, có ích lợi. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Vị ấy
từ bỏ làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa,
không ăn ban đêm. Từ bỏ ăn phi thời. Từ bỏ đi xem múa, hát nhạc, diễn kịch. Từ
bỏ trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Từ bỏ dùng
giường cao và giường lớn. Từ bỏ nhận vàng và bạc. Từ bỏ nhận các hạt sống. Từ bỏ
nhận thịt sống. Từ bỏ nhận đàn bà con gái. Từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai. Từ bỏ
nhận cừu và dê. Từ bỏ nhận gia cầm và heo. Từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa
cái. Từ bỏ nhận ruộng nương, đất đai. Từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình
làm môi giới. Từ bỏ buôn bán. Từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường.
Từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo. Từ bỏ làm thương tổn, sát hại
câu thúc, bứt đoạt, trộm cắp, cướp phá. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới
luật.
Không
làm hại: các hạt giống và cây cối như hạt giống từ rễ sanh, hạt giống từ nhánh
cây sanh, hạt giống từ đốt cây sanh, hạt giống từ chiết cây sanh, và thứ năm là
hạt giống từ hạt giống sanh. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ cất chứa và thọ hưởng các đồ vật như
cất chứa các món ăn, cất chứa các đồ uống, cất chứa vải, cất chứa xe cộ, cất chứa
các đồ nằm, cất chứa các hương liệu, cất chứa các mỹ vị. Như vậy là giới hạnh của
vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ các du hí không chơn chánh như múa,
hát, nhạc kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, tụng chú, đánh trống, diễn các tuồng thần
tiên, mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu trâu, đấu bò đực, đấu dê, đấu cừu, đấu gà,
đấu chim cun cút, đấu gậy, đấu quyền, đấu vật, đánh giặc giả, dàn trận, thao dượt,
diễn binh. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ sống đánh bài và theo các trò giải
trí. Như cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi trên đất,
chỉ bước vào những ô có quyền bước, trò chơi quăng thẻ rồi chụp nhưng không cho
sụp đống thẻ, chơi súc sắc, chơi khăng, lấy tay làm viết, chơi banh, chơi thổi
kèn bằng lá, cày với chiếc cày giả, nhảy lộn nhào, chơi chong chóng, chơi với đồ
chơi bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ, chơi đoán chữ viết thiết trên không
hay trên lưng, chơi đoán tư tưởng, chơi bắt chước bộ điệu. Như vậy là giới hạnh
của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ sống dùng các giường cao và giường lớn
như ghế bành, ghế trường kỷ, nệm trải giường bằng len, vải trải giường nhiều tấm
nhiều màu, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các con
thú, mền bằng lông thú cả hai phía mền bằng lông thú một phía, mền có đính ngọc,
mền bằng lụa, tấm khảm lớn có thể chứa mười sáu người múa, mền voi, mền ngựa, mền
xe, mền bằng da sơn dương khâu lại với nhau, mền bằng da con sơn dương khâu lại
gọi là Kadali, tấm thảm với lều che phía trên, ghế dài có gối đầu, gối chân màu
đỏ. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
sống dùng các đồ trang sức và mỹ phẩm như thoa dầu, đấm bóp, tắm, đập tay chân
cho mềm dẻo, gương kem đánh mặt, vòng hoa và phấn son, phấn mặt và sáp mặt,
vòng tay tóc giả trên đầu, gậy cầm tay, ống thuốc, gươm, lọng, dép thêu, khăn đầu,
ngọc, phất trần, vải trắng có viền tua dài. Như vậy là giới hạnh của vị ấy
trong giới luật.
Từ bỏ
sống nói những câu chuyện vô ích tầm thường như câu chuyện nói về vua chúa, câu
chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần, câu chuyện về binh lính, câu chuyện
về hãi hùng, câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống,
câu chuyện về vải mặc, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu
chuyện về hương liệu, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về
làng xóm, câu chuyện về thị tứ, câu chuyện về thành phố, câu chuyện về quốc độ,
câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về đàn ông, câu chuyện về vị anh hùng, câu
chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện về người đã chết,
các câu chuyện tạp thoại, các câu chuyện biến trạng của thế giới, câu chuyện về
biến trạng của đại vương, câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu. Như vậy
là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
sống bàn luận tranh chấp như nói: "Ngươi không biết pháp và luật này, tôi
biết pháp và luật này. Sao ngươi có thể biết pháp và luật này? Ngươi đã phạm
vào tà kiến, tôi nói mới thật đúng chánh kiến. Lời tôi nói mới tương ưng, lời
nói của người không tương ưng. Những điều đáng nói trước, ngươi lại nói sau. Những
điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Chủ kiến của ngươi đã bị bài bác, câu
nói của ngươi đã bị thách đấu. Ngươi đã bị thuyết bại. Hãy đến mà giải vây lời
nói ấy. Nếu có thể được, gắng thoát ra khỏi lối bí". Như vậy là giới hạnh
của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
sống cho đưa các tin tức, hoặc tự đứng làm môi giới như cho các vua, các đại thần
của vua, cho các vị Sát-đế-lỵ, cho các vị Bà-la-môn, cho các gia chủ cho các
thanh niên và nói rằng: "Hãy đi đến chỗ ấy, hãy đi lại chỗ kia, mang cái
này lại, đem cái này đến chỗ kia". Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới
luật.
Từ bỏ
sống lừa đảo, nói lời siểm nịnh, gợi ý, dèm pha, cầu lợi. Như vậy là giới hạnh
của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
tự nuôi sống bằng những tà hạnh như xem tướng tay chân, chiêm tướng, triệu tướng,
mộng tướng, thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, tế muỗng, dùng miệng phun hạt cải
v. v... vào lửa, tế vỏ lúa, tế tấm, tế gạo, tế thục tô, tế máu, khoa xem chi tiết,
khoa xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu thần ban phước, khoa cầu quỷ ma, khoa
dùng bùa chú khi ở trong nhà bằng đất, khoa rắn, khoa thuốc độc, khoa bò cạp,
khoa chim, khoa chim quạ, khoa đoán số mạng, khoa ngừa tên bắn, khoa biết tiếng
nói của chim. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
tự nuôi sống bằng những tà mạng như xem tướng các hòn ngọc, tướng que gậy, tướng
áo quần, tướng gươm kiếm, tướng mũi tên, tướng cây cung, tướng võ khí, tướng
đàn bà, tướng đàn ông, tướng thiếu niên, tướng thiếu nữ, tướng đầy tớ nam, tướng
đầy tớ nữ, tướng voi, tướng ngựa, tướng trâu, tướng bò đực, tướng bò cái, tướng
dê, tướng cừu, tướng gia cầm, tướng chim cun cút, tướng con cắc kè, tướng vật
tai dài, tướng ma, tướng thú vật. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
tự nuôi sống bằng những tà mạng, như đoán trước: "Vua sẽ tiến quân, vua sẽ
lùi quân, vua bản xứ sẽ tấn công, vua ngoại bang sẽ triệt thối, vua bản xứ sẽ
thắng trận, vua ngoại bang sẽ thắng trận, vua bản xứ sẽ bại trận. Như vậy sẽ có
sự thắng trận cho phe bên này, sẽ có sự bại trận cho phe bên kia". Như vậy
là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
nuôi sống bằng những tà mạng, như đoán trước: "Sẽ có nguyệt thực, sẽ có nhật
thực, sẽ có tinh thực, mặt trăng, mặt trời sẽ đi đúng chánh đạo, mặt trăng mặt
trời sẽ đi ngoài chánh đạo, sẽ có sao băng, các tinh tú sẽ đi đúng chánh đạo,
các tinh tú sẽ đi ngoài chánh đạo, sẽ có sao bằng, sẽ có lửa cháy các phương hướng,
sẽ có động, sẽ có sấm trời, mặt trăng mặt trời các sao sẽ mọc, sẽ lặn, sẽ mờ, sẽ
sáng, nguyệt thực sẽ có kết quả như thế này, nhật thực sẽ có kết quả như thế
này, mặt trăng mặt trời đi đúng chánh đạo sẽ có kết quả như thế này, mặt trăng
mặt trời đi ngoài chánh đạo sẽ có kết quả như thế này, các tinh tú đi đúng
chánh đạo sẽ có kết quả như thế này, các tinh tú đi ngoài chánh đạo sẽ có kết
quả như thế này, sao băng sẽ có kết quả như thế này, lửa cháy các phương sẽ có
kết quả như thế này, động đất sẽ có kết quả như thế này, sấm trời sẽ có kết quả
như thế này, mặt trăng mặt trời các sao mọc lặn sáng mờ sẽ có kết quả như thế
này". Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
tự nuôi sống bằng tà mạng, như đoán trước: "Sẽ có nhiều mưa, sẽ có đại hạn,
sẽ được mùa, sẽ mất mùa, sẽ được an ổn, sẽ bị hiểm họa, sẽ có bệnh, sẽ không có
bệnh, hay làm các nghề như đếm trên ngón tay, kế toán, cộng số lớn, làm thư,
làm theo thế tình". Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
tự nuôi sống bằng những tà mạng, như sắp đặt ngày lành để rước dâu hay rễ về
nhà, sắp đặt ngày lành để đưa dâu hay rễ, lựa ngày giờ tốt để hòa giải, lựa
ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để cho mượn
hay tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến
người bị rủi ro, dùng bùa chú để phá thai, dùng bùa chú làm cóng lưỡi, dùng bùa
chú khiến quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến người phải bỏ tay xuống,
dùng bùa chú khiến tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng thiếu nữ, hỏi thiên
thần để biết họa phước, thờ mặt trời, thờ đại địa, phun ra lửa, cầu Siri thần
tài. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Từ bỏ
tự nuôi sống bằng những tà mạng, như dùng các ảo thuật để được yên ổn, để khỏi
làm các điều đã hứa, để được che chở khi ở trong nhà bằng đất, để dương được thịnh,
để làm người liệt dương, để tìm đất tốt làm nhà, để cầu phước cho nhà mới, lễ rửa
miệng, lễ tắm, lễ hy sinh, làm cho mửa, làm cho xổ, bài tiết các nhơ bẩn về
phía trên, bài tiết các nhơ bẩn về phía dưới, tẩy tịnh trong đầu, thoa dầu
trong tai, nhỏ thuốc mắt, cho thuốc qua lỗ mũi, xức thuốc mắt, thoa dầu cho mắt,
chữa bệnh cho mắt, làm thầy thuốc, mổ xẻ chữa bệnh cho con nít, cho thuốc uống
bằng các loại rễ cây, ngăn ngừa công hiệu của thuốc. Như vậy là giới hạnh của vị
ấy trong giới luật.
Và như
vậy, vị Tỷ-kheo ấy, nhờ đầy đủ giới luật nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về
phương diện hộ trì giới luật. Vị ấy nhờ đầy đủ giới luật cao quý này, nên hưởng
lạc thọ, nội tâm không vẩn đục. Như vậy, Tỷ-kheo đầy đủ giới luật.
Hộ trì các
căn
Thế
nào là Tỷ-kheo hộ trì các căn? Khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo không nắm giữ tướng
chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, khiến nhãn căn không được
chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế
ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe
tiếng... mũi ngửi hương... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm
giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn
không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo
chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy, nhờ sự
hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ nội tâm, không vẩn đục. Như vậy, Tỷ-kheo
hộ trì các căn.
Chánh niệm
tỉnh giác
Thế
nào là Tỷ-kheo chánh niệm tỉnh giác? Ở đây, Tỷ-kheo khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác;
khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh
giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nuốt
đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm,
thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác. Như vậy, Tỷ-kheo chánh niệm tỉnh giác.
Tỷ-kheo biết
đủ
Thế
nào là Tỷ-kheo biết đủ? Ở đây Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ
ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Cũng
như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, vị Tỷ-kheo bằng
lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào
cũng mang theo. Như vậy, là Tỷ-kheo biết đủ.
Vị ấy,
với giới uẩn cao quý này, với sự hộ trì các căn cao quý này, với chánh niệm tỉnh
giác cao quý này, với hạnh biết đủ cao quý này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch,
như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm.
Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói
trên, và an trú chánh niệm trước mặt.
Năm triền
cái
Vị ấy
từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ
bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả
chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm, thụy miên, vị ấy sống
thoát ly hôn trầm và thụy miên; với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh
giác, gột rửa tâm hết hôn trầm, thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối tiếc, vị ấy sống
không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ nghi
ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết
nghi ngờ đối với thiện pháp.
Như một
người mắc nợ, liền làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, người ấy
không những trả được nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ. Người ấy nghĩ:
"Ta trước kia mắc nợ nên làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt,
ta không những trả được nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ". Người ấy
nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ.
Như một
người bị bệnh, đau đớn, trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Sau một
thời gian người ấy khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục. Người ấy
nghĩ: "Ta trước kia bị bệnh, đau đớn trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực
suy yếu. Nay ta khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục". Người ấy
nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.
Như một
người bị nhốt trong ngục. Người ấy sau một thời gian, được khỏi tù tội, an lạc
kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị nhốt
trong ngục, nay ta được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn".
Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.
Như một
người nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại.
Người ấy, sau một thời gian, thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc
người khác, một người được giải thoát, được tự do đi lại. Người ấy nghĩ:
"Ta trước kia bị cảnh nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không
được tự do đi lại. Nay ta thoát cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người
khác, một người được giải thoát, được tự do đi lại". Người ấy nhờ vậy được
sung sướng hoan hỷ.
Như một
người giàu có, nhiều tài sản, đang đi qua bãi sa mạc, thiếu lương thực, đầy những
nguy hiểm. Người ấy, sau một thời gian đã đi khỏi sa mạc, đến đầu làng vô sự,
yên ổn, không có nguy hiểm. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia giàu có, nhiều
tài sản, đi qua bãi sa mạc thiếu lương thực, đầy những nguy hiểm. Nay ta đã đi
qua khỏi bãi sa mạc ấy, đến đầu làng vô sự, yên ổn, không có nguy hiểm".
Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.
Tỷ-kheo
tự mình quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù,
như cảnh nô lệ, như con đường sa mạc. Này Ðại vương, cũng như không mắc nợ, như
không bệnh tật, như được khỏi tù tội, như được tự do, như đất lành yên ổn, này
Ðại vương, Tỷ-kheo quán năm triền cái khi diệt trừ chúng.
Thiền thứ
nhất (1)
Khi
quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh;
do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ,
tâm được định tĩnh. Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt,
làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ
nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
Như một
người hầu tắm lão luyện hay đệ tử người hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau
bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt,
nhào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy
thành giọt. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung
mãn, tràn đầy thân hình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn
thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
Thiền thứ
hai (2)
Tỷ-kheo
ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm
cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào
trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.
Ví như
một hồ nước, nước tự trong dâng lên, phương Ðông không có lỗ nước chảy ra,
phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra,
phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước
mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước
ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh
thấm nhuần. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung
mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn
thân, không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.
Thiền thứ
ba (3)
Tỷ-kheo
ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
"Xả niệm lạc trú", chứng và an trú thiền thứ ba. Tỷ-kheo thấm nhuần,
tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không
một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
Ví như
trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay
sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi
nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần tẩm ướt, đầy
tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh,
sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này Ðại
vương Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với lạc
thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không
có hỷ ấy thấm nhuần.
Thiền thứ
tư (4)
Tỷ-kheo,
xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư,
không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình
với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm
thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
Ví như
một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân
không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần
toàn thân mình với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân
không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
Chánh trí,
chánh kiến (5)
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến chánh trí,
chánh kiến. Vị ấy biết: Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ
sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại
diệt, trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị trói buộc.
Ví như
một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài,
sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi giây được xâu qua
hòn ngọc ấy, sợi giây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng nhạt.
Một người có mắt cầm hòn ngọc ấy trên tay sẽ thấy: Hòn lưu ly bảo châu này, đẹp
đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy
đủ tất cả mỹ tướng. Và sợi giây này được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi giây màu
xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng nhạt. Cũng vậy, này Ðại vương, với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy. Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến chánh trí,
chánh kiến. Vị ấy biết: Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ
sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại
diệt. Trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị trói buộc.
Hóa hiện (6)
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo chú tâm, hướng tâm đến sự hóa hiện
một thân do ý làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc
pháp, do ý làm ra, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào.
Ví như
mọt người rút một cây lau ra ngoài vỏ. Người ấy nghĩ: Ðây là vỏ, đây là cây
lau; vỏ khác, cây lau khác và cây lau từ vỏ rút ra. Ví như một người rút thanh
kiếm từ bao kiếm; thanh kiếm khác, bao kiếm khác, và thanh kiếm từ nơi bao kiếm
rút ra. Ví như một người lột xác một con rắn. Người ấy nghĩ: Ðây là con rắn,
đây là xác rắn, con rắn khác, xác rắn khác, và con rắn từ nơi xác rắn được lột
ra. Cũng vậy, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng
tâm đến sự hiện hóa một thân do ý làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân
này, cũng là sắc pháp, do ý tạo thành, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu
một căn nào.
Thần thông (7)
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến các thần
thông. Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều
thân hiện ra một thân; hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua
núi như đi ngang hư không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước;
đi trên nước không chìm như trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như
con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực,
đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.
Ví như
một người thợ gốm khéo tay, hay đệ tử người thợ gốm, với đất sét khéo nhồi nhuyễn,
có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích. Ví như một người thợ ngà khéo
tay, hay đệ tử người thợ ngà, với ngà khéo đẽo dũa có thể làm các loại đồ ngà
tùy theo sở thích. Ví như người thợ vàng khéo tay hay đệ tử người thợ vàng, với
vàng khéo tinh nhuyễn có thể làm các loại đồ vàng tùy theo sở thích. Cũng vậy với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm hướng tâm đến các thần
thông. Vị ấy chứng được các thần thông một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân
hiện ra một thân; hiện hình biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi,
như đi ngang qua hư không; độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước;
đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không
như còn chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt trăng, những vật có đại
oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.
Thiên nhĩ
thông (8)
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến thiên nhĩ
thông. Tỷ-kheo với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân có thể nghe hai loại tiếng,
chư Thiên và Người, xa và gần.
Ví như
một người đang đi qua đường, nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa,
tiếng xập xõa và tiếng kiểng. Người ấy nghĩ: "Ðây là tiếng trống lớn, đây
là tiếng trống nhỏ, đây là tiếng loa, tiếng xập xõa, tiếng kiểng". Cũng vậy,
với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến thiên nhĩ
thông. Tỷ-kheo với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng,
chư Thiên và Người, xa và gần.
Tha tâm
thông (9)
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến tha tâm
thông. Tỷ-kheo sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài người với tâm của
mình, vị ấy biết được như sau:
Tâm có
tham, biết là tâm có tham. Tâm không có tham, biết là tâm không có tham.
Tâm có
sân, biết là tâm có sân. Tâm không có sân, biết là tâm không có sân.
Tâm có
si, biết là tâm có si. Tâm không có si, biết là tâm không có si.
Tâm
chuyên chú, biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, biết là tâm tán loạn.
Ðại
hành tâm, biết là đại hành tâm. Không phải đại hành tâm, biết không phải là đại
hành tâm.
Tâm
chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng, Tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng.
Tâm
thiền định, biết là tâm thiền định. Tâm không thiền định, biết là tâm không thiền
định.
Tâm giải
thoát, biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, biết là tâm không giải
thoát.
Ví như
một người đàn bà, một người đàn ông, một thiếu niên trẻ hay một thanh niên ưa
trang sức, nhìn mặt của mình trong tấm gương trong sạch, sáng suốt hay một chậu
nước trong. Nếu mặt có tỳ vết, liền biết mặt có tỳ vết; nếu mặt không có tỳ vết,
liền biết mặt không có tỳ vết. Cũng vậy, với tâm định tĩnh, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo
dẫn tâm, hướng tâm đến tha tâm thông. Tỷ-kheo sau khi đi sâu vào tâm của chúng
sanh, của mọi người với tâm của mình, vị ấy biết được.
Túc mạng
minh (10)
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng
minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời,
năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một
trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều
thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia ta có
tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế
này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại
chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ
nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ
cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Ví như
một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa,
và từ làng này lại trở về làng của mình. Người ấy nghĩ: "Ta từ làng của
mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói
như thế này, đã yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ, ta đã trở về làng của
ta". Như vậy, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng
tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời,
năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều
hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp và thành kiếp. Vị ấy nhớ: "Tại
chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống
như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết
tại chỗ kia, ta được sanh ra chỗ nọ, tại đây, ta có tên như thế này, dòng họ
như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế
này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở
đây". Như vậy, Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết.
Trí huệ về
sanh tử (11)
Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí huệ về
sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống
và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao
sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
chúng: "Này các Hiền giả, những Tôn giả này làm những điều ác hạnh về
thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến.
Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về
thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp
theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên
các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh
siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người
hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do
hạnh nghiệp của chúng.
Ví như
một tòa lầu có thượng đài, giữa ngã tư đường, một người có mắt đứng trên ấy, sẽ
thấy những người đi vào nhà, đi từ nhà ra, đi qua lại trên đường, ngồi ở giữa
ngã tư hay trên đài thượng. Người ấy nghĩ: "Những người này đi vào nhà, những
người này đi từ nhà ra, những người này đi qua lại trên đường, những người này
ngồi giữa ngã tư, trên đài thượng". Cũng vậy, với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản
như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy
với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.
Vị ấy
biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu,
người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng: Này các Hiền giả, những
chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh,
theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến, những người này sau khi thân hoại mạng
chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những
chúng sanh nào làm các thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc
Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này.
Như vậy, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng
sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ
thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Đó là quả thiết
thực, hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực
hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Lậu tận
trí (12)
"Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí.
Vị ấy biết như thật "đây là khổ", biết như thật "đây là nguyên
nhân của khổ", biết như thật "đây là khổ diệt", biết như thật
"đây là con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật "đây là những
lậu hoặc", biết như thật "đây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết
như thật "đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật "đây
là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận
thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi
vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: Ta
đã giải thoát. Vị ấy biết: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã
làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa.
Ví như
tại dãy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Một
người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những
đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: "Ðây là hồ nước thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm. Ðây là những con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn,
những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ". Cũng vậy, này Ðại
vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy. Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến
lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây là khổ", biết như thật
"đây là nguyên nhân của khổ", biết như thật "đây là khổ diệt",
biết như thật "đây là con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật
"đây là những lậu hoặc", biết như thật "đây là nguyên nhân của lậu
hoặc", biết như thật "đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như
thật "đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết
như vậy, nhờ nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu
lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát, vị ấy biết: Sanh đã
tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có
đời sống nào khác nữa.
Không
có một quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn nào vi diệu và thù thắng hơn quả
thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn này.